3 điển cố tôn sư trọng đạo nổi tiếng ngàn đời
Tôn sư trọng đạo là một truyền thống quý giá trong nền văn hóa thần truyền của các dân tộc phương Đông. Người thầy là người truyền tải những pháp lý, đạo lý, luân lý, quy phạm, kiến thức… cho học trò, do đó từ xưa đã rất được kính trọng.
Trong “Lễ ký – Học ký” có viết: “Sư nghiêm, nhiên hậu đạo tôn; đạo tôn, nhiên hậu dân tri kính học.” (Thầy nghiêm thì Đạo mới được tôn trọng; Đạo được tôn trọng thì dân mới biết kính sợ mà học tập.) Để có thể duy trì sự tôn nghiêm của thầy giáo không chỉ yêu cầu sự tôn kính và lễ nghĩa trong ngôn hành cử chỉ của học sinh với thầy mà còn là sự tôn trọng từ nội tâm, cần cù học tập, hiểu được đạo lý và uốn nắn bản thân.
Thầy là người truyền cho ta “đức”, “tài”, dạy ta đạo lý làm người, cùng với học vấn, kỹ năng và các quy phạm xử thế, mang lại lợi ích cho ta cả đời. Chính vì vậy, trong cổ huấn có câu: “Một ngày làm thầy, cả đời làm cha.” Người xưa vô cùng coi trọng phẩm hạnh tu dưỡng, biết học theo đức hạnh của thầy, cảm tạ ân sư, để lại rất nhiều câu chuyện cảm động. Dưới đây là vài câu chuyện trong số đó.
1. Chu Vương Nghe Theo Thầy Khương Tử Nha
Một ngày làm thầy, cả đời làm cha! Ba điển cố tôn sư trọng đạo nổi tiếng ngàn đời. Câu chuyện thứ nhất là Văn Vương và Vũ Vương làm học trò của bậc tài đức Khương Tử Nha.
Cuối thời Thương, chư hầu phương Tây là Chu Văn Vương dùng đức cảm hóa dân, thi hành nhân chính. Ông hiểu sâu sắc rằng muốn trị quốc tốt thì phải dùng người hiền đức. Khao khát hiền tài, ông nghe nói Khương Tử Nha có đạo đức cao thượng, học thức uyên bác, là bậc đại hiền của thời ấy. Ông bèn chọn ngày lành tháng tốt, trai giới, tắm gội, chí thành tự mình dẫn người đến bờ sông Bàn Khê thỉnh mời Khương Tử Nha.
Trong lúc đàm đạo, Văn Vương thấy Khương Tử Nha có tấm lòng bao dung, có tài kinh bang tế thế, có chí an dân cứu đời, liền vui mừng nói: “Khi ông nội ta còn sống từng nói: ‘Tương lai ắt sẽ có một vị thánh nhân đến với Chu, giúp con làm hưng thịnh nhà Chu.’ Ngài chính là vị thánh nhân mà ông nội ta nói đến.” Nói xong liền mời Khương Tử Nha cùng xe quay về.
Văn Vương bái Khương Tử Nha làm tể tướng, thỉnh ông làm thầy của mình, thỉnh giáo phương lược trị quốc an dân, từ đó Tây Chu trở nên ngày càng cường thịnh. Trước lúc lâm chung, Văn Vương giao con trai mình là Vũ Vương cho Khương Tử Nha. Văn Vương dặn Vũ Vương: “Hãy coi tể tướng như cha, sáng tối nghe lời chỉ dạy. Ngươi có thể mời tể tướng ngồi để con bái lạy.” Vũ Vương bèn tôn Khương Tử Nha làm “Tướng Phụ”, lại tôn là “Sư Thượng Phụ”. Khương Tử Nha không phụ kỳ vọng, tận tâm trị chính, phò tá Vũ Vương phạt Trụ, thống nhất thiên hạ, mở ra chính đạo trị quốc hưng bang cho hậu thế.
2. Tử Hạ Nối Chí Thầy
Tử Hạ, họ Bốc tên Thương, tự là Tử Hạ. Tử Hạ là người có chí học tập nên thường được Khổng Tử khen ngợi và là một trong những học trò xuất sắc của Khổng Môn.
Suốt cuộc đời, Khổng Tử coi việc truyền bá văn hóa truyền thống là nhiệm vụ của mình, chu du khắp các nước hoằng đạo mà không màng khó khăn gian khổ. Tử Hạ chăm chỉ hiếu học, tinh thông hầu hết những kinh điển Nho giáo “Thi”, “Thư”, “Lễ”, “Dịch” và theo Khổng Tử đi khắp các nước. Sau khi Khổng Tử qua đời, Tử Hạ cùng các bạn đồng môn Tử Du, Trọng Cung biên soạn bản thảo của “Luận Ngữ”, đồng thời ghi chép lại những lời dạy của thầy thành ngôn luận, học thuyết, tư tưởng, câu chuyện. Tử Hạ kế thừa tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, thêm một bước nữa nghiên cứu biên tập văn hiến cổ đại, đi khắp nơi giảng dạy truyền bá về đạo đức, truyền bá nghi thức lễ nhạc do Khổng Tử khởi xướng, đóng góp lớn cho sự phồn vinh văn hóa và giáo hóa dân phong tại nhiều nơi.
Khi còn theo học Khổng Tử, ông thường vấn đáp với thầy. Khổng Tử khen ông chính trực thẳng thắn, trong đầu không có tạp niệm. Nhờ những quan điểm độc đáo mà ông thường được thầy khen ngợi, ví dụ như lời nói sau: “Bác học nhi đốc chí, thiết vấn nhi cận tư, nhân tại kỳ trung hỉ.” Ý nghĩa là học sâu hiểu rộng và kiên trì chí hướng của mình, đào sâu tìm hiểu những sự việc chưa rõ (chưa liễu giải) đồng thời suy xét đến năng lực của bản thân, thì nhân đức đã ở trong đó.
Một lần, đệ tử của Khổng Tử là Tư Mã Ngưu buồn rầu nói: “Người ta đều có huynh đệ, chỉ có đệ tử là không có.” Khổng Tử nói: “Người quân tử không buồn cũng không lo sợ.” Tư Mã Ngưu lại nói: “Thưa thầy, không buồn cũng không lo sợ thì là người quân tử sao?” Khổng Tử trả lời: “Không ngừng kiểm điểm bản thân thì còn điều gì phải buồn phải lo sợ nữa?” Ý nghĩa là người quân tử có thể thường xuyên kiểm điểm bản thân và không làm việc hổ thẹn với lòng mình thì có điều gì phải buồn rầu. Tử Hạ khuyên Tư Mã Ngưu rằng: “Thương văn chi hỉ: tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên. Quân tử kính nhi vô thất, dữ nhân cung nhi hữu lễ; tứ hải chi nội, giai huynh đệ dã. Quân tử hà hoạn hô vô huynh đệ dã?” Ý nghĩa là người quân tử đối đãi với cuộc đời bằng thái độ siêu phàm. Đầu óc rộng mở, làm việc cẩn thận chắc chắn, đối với người khác thì cung kính lễ nghi, đi khắp thiên hạ đâu đâu cũng là huynh đệ, người quân tử sao phải lo lắng không có huynh đệ nữa?
Tử Hạ từng hỏi Khổng Tử về đức hạnh của vua Hạ Vũ, Thương Thang, Văn Vương rằng: “Đức hạnh của ba vị vua, lớn như trời đất, con xin mạo muội hỏi: Làm thế nào để hòa hợp cùng với trời đất?” Khổng Tử nói: “Lấy tam vô tư để trị vì thiên hạ.” Tử Hạ lại hỏi: “Thế nào là tam vô tư?” Khổng Tử đáp: “Thiên vô tư phủ, địa vô tư tải, nhật nguyệt vô tư chiếu. Bổng tư tam giả dĩ lao thiên hạ, thử chi vị tam vô tư.” Tinh thần tam vô tư mà Khổng Tử nhắc đến là: Trời vô tư che chở vạn vật, đất vô tư ôm chứa vạn vật, nhật nguyệt vô tư soi chiếu cho vạn vật. Các bậc thánh vương ngày xưa đã đồng tâm với trời đất, mang theo tấm lòng vô tư và bao dung như trời, đất, nhật nguyệt đối với vạn vật, yêu thương và quan tâm đến dân. Khổng Tử còn giảng về đức hạnh của ba vị thánh vương trong “Thi kinh” rằng: “Thánh nhân tự thân đắc đức hành cự kỳ thanh minh, khí chất vi diệu như thần, kính sự thượng thiên, giáo hóa vạn dân.” Tử Hạ nghe thấy vô cùng cảm kích: “Đệ tử xin tiếp thu lời giáo huấn này của thầy!”
Khi làm huyện lệnh huyện Cử Phụ, Tử Hạ đã thỉnh giáo Khổng Tử về đạo làm quan. Khổng Tử dạy rằng: “Không cần vội vã truy cầu thành quả, không để mắt tới những lợi ích nhỏ bé. Vội vã truy cầu thành quả thì lại khiến mình không đạt được mục đích; để mắt đến cái lợi nhỏ thì không làm được việc lớn.” Khổng Tử còn giảng làm quan thì không những phải có trách nhiệm quản lý chính sự mà còn phải gánh vác trọng trách giáo hóa muôn dân, khi dạy dỗ đệ tử thì cần coi thiên hạ là trách nhiệm của mình, truy cầu nhân nghĩa đại đạo. Khi làm quan tại địa phương, Tử Hạ luôn cung kính học hỏi cách cai quản của các hiền sĩ, huyện Cử Phụ được bình yên và ấm no. Khổng Tử nói với các đệ tử rằng: “Tử Hạ thích được ở cùng với các bậc hiền minh, cho nên tu dưỡng đạo đức sẽ ngày càng tiến bộ.”
Khổng Tử coi trọng việc giáo hóa lễ nhạc, nhấn mạnh việc dùng lễ nhạc cảm hóa nhân tâm, khiến cho âm nhạc của con người thuận với thiên đạo, thành tựu việc dĩ “thành” vi bản, nhân cách “ôn nhu đôn hậu” của người quân tử. Vào thời lễ nhạc bị băng hoại, âm nhạc Trịnh Vệ thịnh hành, biểu hiện ra sự truy cầu những dục vọng vật chất, Khổng Tử phản đối âm nhạc của Trịnh Vệ, gọi đó là niệu âm. Ông cho rằng chỉ có âm nhạc hợp với đạo mới được gọi là âm nhạc, ông bắt tay vào phục hưng lễ nhạc, hoằng đạo tế thế. Tử Hạ giỏi về nhạc, sau khi Khổng Tử mất, ông ghi nhớ lời dạy của thầy, đi khắp nơi truyền bá, phổ cập lễ nhạc, giúp cho rất nhiều người có thể hát khúc cổ cầm “Huyền Ca”.
Một lần Tử Hạ gặp Ngụy Văn Hầu. Ngụy Văn Hầu nói: “Khi ta mặc y phục chỉnh tề đi nghe cổ nhạc, chỉ lo là sẽ ngủ mất; mà khi nghe những loại nhạc thịnh hành Trịnh, Vệ thì lại không thấy mệt mỏi. Cổ nhạc và nhạc hiện đại có gì khác nhau?” Tử Hạ nghiêm túc trả lời: “Cổ nhạc là nhã nhạc do các bậc thánh hiền lưu truyền lại từ thời Hoàng Đế, vua Nghiêu, vua Thuấn. Tiết tấu từ tốn và trang trọng, có nhiều ngụ ý. Tiếng nhạc hài hòa, khí thế rộng mở, điệu múa nhanh mà nho nhã chứ không trần tục. Còn âm nhạc hiện nay, một số chỉ có thể gọi là âm nhạc gây mê hoặc. Biểu diễn thì tạp loạn, thô tục nông cạn, ẩn chứa sự phóng đãng, không hề có nội hàm bên trong, khiến cho người nghe truy cầu sự dâm dục, ý chí suy đồi hoặc kiêu ngạo, hoàn toàn không tuân theo đức, nên không thể gọi là nhạc.”
Mọi người khuyên Tử Hạ ra làm quan để thay đổi môi trường, nhưng ông lại không muốn đi tranh giành chút lợi ích nhỏ, mà kiên trì ý chí “quân tử tiềm vu cơ hàn, nhi chí bất tịch” (người quân tử ẩn mình trong cảnh nghèo khó, mà chí hướng không thay đổi) đi khắp nơi truyền giảng kinh điển Nho giáo “Xuân Thu”. Mục đích viết ra “Xuân Thu” của Khổng Tử là thuật lại những diễn biến xã hội, sự băng hoại của lễ nhạc. Khổng Tử cho rằng thiên thượng sẽ dựa vào những hành vi thiện ác của con người mà giáng tội cho người đó, ông còn đưa ra những tai ương để cảnh cáo con người, giúp người ta nhận ra mà hối cải, bởi vậy “Xuân Thu” nói về chuyện tai ương và nói lên thiên đạo. Trong khi truyền giảng “Xuân Thu”, Tử Hạ cũng nêu ra nhiều sự kiện lớn ở các nước, hy vọng mọi người lấy đó làm bài học lịch sử, dẫn cho thế nhân đến gần với các bậc thánh hiền, đi trên con đường chính đạo.
Khi Tử Hạ mở trường dạy ở nước Ngụy, ông chú trọng hướng dẫn học sinh về đạo đức. Ông còn dạy học sinh và bách tính truyền bá lễ nghĩa, khởi đầu văn minh, đạt được nhân đạo thông qua lễ nhạc.
3. Tử Cống Bảo Vệ Sự Tôn Nghiêm Của Đạo Thầy
Thời Xuân Thu, học trò của Khổng Tử là Tử Cống rất thông minh hiếu học, tự rèn luyện nghiêm khắc, đối với thầy vô cùng cung kính. Ông không chỉ là người truyền bá học thuyết Nho gia mà còn là người bảo vệ kiên định nhất. Ông coi chí của thầy là chí của mình, phát huy tư tưởng đạo đức và nhân chính, luôn luôn bảo vệ sự tôn nghiêm và thanh danh của thầy.
Trần Tử Cầm hỏi Tử Cống: “Học vấn của Khổng Tử là từ đâu mà có? Khi ông chu du các nước, hiểu rõ chính sự các nước, là do ông hỏi người khác hay người ta tự nói cho ông biết?” Tử Cống đáp: “Nhân nghĩa của Văn Vương, Vũ Vương lưu truyền trong đời, người hiền thì biết nội hàm của nó, kẻ bất hiền thì chỉ biết phần ngọn; đạo nghĩa công lý ở khắp nơi, phu tử ở đâu mà không thể học được? Cách phu tử hỏi thăm tin tức cũng không giống người thường, đó là do ông dùng đức ôn hòa, thiện lương, cung kính, giản phác, khiêm nhường mà có được.”
Khi Tề Cảnh Công hỏi Tử Cống về tài đức của Khổng Tử, Tử Cống lập tức đáp: “Phu tử là thánh nhân, há chỉ là người hiền thôi sao.” Đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Vũ Thúc hủy báng Khổng Tử, Tử Cống liền nghiêm nghị nói: “Làm vậy cũng vô ích! Phu tử là không thể hủy báng được. Đức hạnh của người khác ví như đồi núi, còn có thể vượt qua; đức hạnh của Phu tử như mặt trời và mặt trăng, không sao vượt qua được. Tuy có người muốn tự cắt đứt mình khỏi nhật nguyệt, nhưng đối với nhật nguyệt thì có tổn hại gì? Chỉ là tự cho thấy mình không biết lượng sức mà thôi!” Sở dĩ Tử Cống làm vậy là vì sự kính phục đối với Khổng Tử và sự hiểu biết sâu sắc về học thuyết của thầy, bởi ông tin rằng truy cầu chân lý và bảo vệ đạo đức là việc chính nghĩa.
4. Nhạc Phi Không Quên Ân Thầy
Nhạc Phi thời Tống nhỏ tuổi đã mất cha, gia cảnh nghèo khó, không có tiền đi học. Nhưng ông vô cùng ham học, thường đứng ngoài cửa lớp tư thục nghe giảng; không có tiền mua giấy bút, ông dùng cành cây làm bút, lấy mặt đất làm giấy. Thầy tư thục là Chu Đồng rất thích đứa trẻ ham học này, liền nhận Nhạc Phi làm học trò miễn phí, dạy ông cách làm người, giúp ông lập chí lớn bảo quốc an dân, lập công lập nghiệp; ngày lẻ học văn, ngày chẵn học võ. Thầy còn dạy ông tuyệt kỹ bắn tên, có thể giương cung cả hai tay, trăm phát trăm trúng.
Nhạc Phi không phụ sự dạy dỗ của thầy, chăm chỉ khổ luyện, văn võ song toàn. Sau này ông thống lĩnh quân thu hồi đất đai, lập nhiều kỳ công, trở thành anh hùng khiến quân Kim nghe danh khiếp sợ. Sau khi Chu Đồng qua đời, Nhạc Phi mặc áo tang, tự mình kéo linh xa, dùng lễ của con để an táng thầy. Vào các ngày mồng một, rằm, bất kể đang hành quân đánh trận hay đóng quân trong doanh, ông đều tế bái ân sư; mỗi lần khóc xong, nhất định cầm lấy cây “Thần Tý Cung” nặng ba trăm cân mà thầy tặng, bắn ba mũi tên. Nhạc Phi nói: “Thầy dạy tôi đạo lý lập thân xử thế, tận trung báo quốc, lại đem hết cả đời sở học về cung tên và võ nghệ truyền cho tôi, ân thầy là cả đời tôi không thể quên.”
Người xưa nói: “Tam giáo thánh nhân, không ai không có thầy; thiên cổ đế vương, không ai không có thầy.” Người mà không kính thầy là kẻ vong ân, sao có thể thành đạo? Từ xưa các bậc tiên triết, thánh hiền đều lấy thân làm gương, khiêm cung học hỏi. Phong phạm tôn sư trọng đạo của họ xứng đáng làm mô phạm cho hậu thế, khiến đời sau noi theo và kính ngưỡng.
Theo secretchina
Bình Nhi biên dịch