40 điển cố lớn thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Phần 1)

40 điển cố lớn thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Phần 1)
Để lấy được một nụ cười của Bao Tự, Chu U Vương phóng hoả đùa chư hầu. (Ảnh: Vạn điều hay)

Thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc kéo dài hơn 500 năm, chiến tranh triền miên. Rất nhiều nhân vật kiệt xuất và câu chuyện hấp dẫn lần lượt xuất hiện. Dù là trong các trận chiến ác liệt, trong quân doanh bàn mưu tính kế, hay là những cuộc ngoại giao xoay chuyển cục diện, đều để lại nhiều điển cố lịch sử lưu truyền nghìn thu. Hiểu rõ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về văn hóa và lịch sử, nâng cao tu dưỡng bản thân, và làm phong phú thêm kinh nghiệm sống của mình.

Sau đây là 40 câu chuyện kinh điển, hãy xem bạn biết được bao nhiêu?

1. Phóng hỏa đùa chư hầu

Cuối thời Tây Chu, Chu U Vương là vị vua hồ đồ, ngu ngốc. Để lấy được một nụ cười của phi tần Bao Tự, ông không tiếc dựng nên trò đùa dùng lửa hiệu cầu cứu để trêu đùa chư hầu. Kết quả, khi người Khuyển Nhung (dân tộc thiểu số) tấn công, ông lại thắp lửa hiệu cầu cứu thật, nhưng lần này chư hầu không ai đến ứng cứu. Chu U Vương bị giết, Tây Chu diệt vong. Từ đó, quyền uy của Thiên tử nhà Chu sụp đổ, mở ra thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc với cảnh các chư hầu tranh hùng, chinh chiến không ngừng.

 2. Tôn vương, đánh di (Tôn vương nhương di)

Tề Hoàn Công trên con đường thành tựu sự nghiệp xưng bá đã được Quản Trọng phò tá. Trước khi Tề Hoàn Công lên ngôi, Quản Trọng từng phục vụ đối thủ của ông, thậm chí từng bắn một mũi tên vào Tề Hoàn Công để tranh quyền. Nhưng sau khi lên ngôi, Tề Hoàn Công trọng dụng tài năng của Quản Trọng, không tính thù cũ, phong ông làm Tể tướng, tiến hành cải cách, khiến nước giàu quân mạnh.

Vào thời Xuân Thu, địa vị của Thiên tử nhà Chu suy giảm nghiêm trọng, các chư hầu không còn nghe lệnh. Một số chư hầu mạnh nhân cơ hội phát động chiến tranh thôn tính, ép các nước khác thừa nhận mình là bá chủ. Quản Trọng phụ trợ Tề Hoàn Công nêu cao khẩu hiệu “Tôn vương, đánh di”, giúp Tề Hoàn Công “chín lần liên minh các chư hầu, một lần chỉnh đốn thiên hạ”, trở thành bá chủ đầu tiên của thời Xuân Thu.

3. Hỏi đỉnh Trung Nguyên

Tương truyền, khi Sở Trang Vương mưu cầu bá nghiệp, từng kéo quân tới vùng ngoại ô Lạc Ấp – kinh đô nhà Chu để phô trương sức mạnh, rồi sai sứ giả đến hỏi về kích thước và trọng lượng của Cửu Đỉnh. Cửu Đỉnh tượng trưng cho vương quyền. Việc hỏi đỉnh ngụ ý có ý tranh đoạt quyền lực.

4. Rút lui ba dặm

Thời Xuân Thu, nước Tấn có nội loạn, Trùng Nhĩ – con trai Tấn Hiến Công phải lưu vong sang Sở. Sở Thành Vương tiếp đãi rất hậu, Trọng Nhĩ hứa rằng nếu sau này Tấn – Sở giao chiến, Tấn sẽ lui ba dặm (mỗi dặm khoảng 30 lý).

Sau này, được Tần Mục Công giúp đỡ, Trùng Nhĩ trở về làm vua Tấn. Khi Tấn và Sở xảy ra chiến sự tại Thành Phố, Trùng Nhĩ thực hiện lời hứa, lui quân ba dặm để nhử địch, sau đó đại phá quân Sở.

5. Một tiếng kinh người

Tương truyền, Tề Uy Vương ba năm đầu trị quốc chỉ lo vui chơi, không lo triều chính. Một đại thần hỏi ông: “Nghe nói trong nước có con chim lớn, ba năm không bay, ba năm không hót, là sao vậy?”

Tề Uy Vương đáp: “Con chim lớn này ba năm không bay, hễ bay thì xung thẳng lên Trời; ba năm không kêu, nhưng một lần cất tiếng là kinh động khắp bờ cõi”.  Sau đó ông chỉnh đốn triều chính, cường hóa quân đội, chỉ trong vài năm đã xây dựng đất nước hùng mạnh.

6. Ngựa già biết đường

Thời Xuân Thu, Tề Hoàn Công theo yêu cầu của nước Yên, đem quân đánh bại nước Sơn Nhung xâm phạm. Vua Sơn Nhung bỏ chạy sang nước Cô Trúc cầu cứu, Quản Trọng theo Tề Hoàn Công đánh bại quân Cô Trúc.

Trên đường về, do người dẫn đường giả dẫn vào hẻm núi, khiến quân Tề bị lạc. Quản Trọng đề nghị thả một con ngựa già để dẫn đường. Nhờ đó, toàn quân thoát hiểm an toàn.

7. Cõng roi xin lỗi

Thời Chiến Quốc, nước Triệu có hai trọng thần là Liêm Pha và Lạn Tương Như. Do Lạn Tương Như nhiều lần lập công nên được phong làm Tướng quốc, Liêm Pha không phục, cho rằng công lao của mình trên chiến trường lớn hơn lời nói của Lạn Tương Như.

Lạn Tương Như vì nước mà nhiều lần nhường nhịn. Sau khi hiểu được tấm lòng của ông, Liêm Pha xấu hổ, cởi áo, cõng roi đến trước nhà xin lỗi. Từ đó hai người trở thành bạn thân sống chết có nhau.

8. Nói quân sự trên giấy

Thời Chiến Quốc, Triệu Quát – con trai danh tướng Triệu Xa – đọc nhiều binh thư, nói thao thao bất tuyệt về binh pháp, đến mức cha mình cũng không thể tranh cãi lại. Tuy nhiên Triệu Xa cho rằng con chỉ “nói quân sự trên giấy”, không hiểu thực tế chiến trường.

Sau khi Triệu Xa qua đời, Triệu Quát thay thế Liêm Pha chỉ huy quân đội. Mặc dù Lạn Tương Như và người khác phản đối, Triệu vương vẫn kiên quyết. Kết quả trong trận Trường Bình, Triệu Quát khiến quân Triệu tổn thất 40 vạn người.

9. Ba lệnh năm nhắc

Tôn Vũ lưu lạc đến nước Ngô. Ngô vương muốn thử tài ông nên giao 180 cung nữ cho ông huấn luyện. Tôn Vũ chia làm hai đội, cử hai phi tần sủng ái của Ngô vương làm đội trưởng. Sau khi hạ khẩu lệnh và đánh trống ra lệnh, cung nữ cười đùa, đội hình rối loạn.

Tôn Vũ nhắc lệnh thêm lần nữa, nhưng các cung nữ vẫn không nghiêm túc. Ông tuyên bố: “Lệnh đã rõ mà không tuân là lỗi của người chỉ huy”, rồi chém hai phi tần. Ngô vương ngăn cản không kịp. Sau đó, toàn bộ cung nữ nghiêm chỉnh tuân lệnh, huấn luyện thành công.

10. Vây Ngụy cứu Triệu

Thời Chiến Quốc, quân nước Ngụy bao vây kinh đô Hàm Đan của nước Triệu. Triệu cầu cứu nước Tề, vua Tề Uy Vương sai Điền Kỵ làm tướng, Tôn Bất làm quân sư, xuất quân cứu Triệu. Điền Kỵ ban đầu định trực tiếp dẫn quân cứu Hàm Đan của nước Triệu, nhưng Tôn Bất đề xuất dẫn quân bao vây kinh đô Đại Lương của nước Ngụy, vì Ngụy tất sẽ phải rút quân về cứu kinh đô, như vậy không chỉ giải vây cho Triệu mà còn khiến quân Ngụy mệt mỏi kiệt sức.

Điền Kỵ chấp nhận kế sách của Tôn Bất, dẫn quân tiến thẳng về Đại Lương. Nghe tin, quân Ngụy vội rút khỏi vòng vây Hàm Đan, chạy đêm đi cứu Đại Lương. Đến quãng đường Quế Lăng, quân Tề chủ động chọn chỗ nghỉ ngơi, chuẩn bị đánh quân Ngụy đang mệt mỏi. Quân Ngụy đại bại, gần như bị tiêu diệt toàn bộ.

11. Hồ phục kỵ xạ (Mặc trang phục Hồ và cưỡi ngựa bắn cung)

Quốc vương nước Triệu, Vũ Linh Vương, quyết tâm cải cách và tăng cường quốc lực. Vũ Linh Vương thấy người Hồ mặc áo tay hẹp ngắn, cưỡi ngựa chiến, vừa chạy vừa bắn cung, di chuyển nhanh nhẹn, rất linh hoạt, nên quyết định học theo người Hồ, cải cách trang phục quân sĩ và phát triển kỵ binh. Chưa đầy một năm, nước Triệu đã sở hữu một đội kỵ binh mạnh mẽ, trải qua các cuộc Nam chinh Bắc chiến, trở thành một trong những cường quốc hàng đầu lúc bấy giờ.

12. Lấy trộm phù ấn cứu Triệu

Nước Tần sai quân bao vây kinh đô Hàm Đan của nước Triệu. Triệu cầu cứu nước Ngụy, Ngụy cử quân đi cứu Triệu. Tần nghe tin Ngụy cử quân cứu Triệu, liền sai người đến Ngụy đe dọa vua Ngụy, vua Ngụy phải khuất phục trước Tần, ra lệnh cho quân cứu Triệu không được hành động.

Vua Triệu viết thư cầu cứu công tử Tín Lăng Quân của nước Ngụy. Tín Lăng Quân từng giúp phi tần sủng ái của vua Ngụy là Như Cơ báo thù giết cha. Tín Lăng nhờ Như Cơ lấy trộm phù ấn từ vua Ngụy, chiếm quyền chỉ huy quân đội, dẫn vài vạn tinh binh tiến đến Hàm Đan, đánh bại quân Tần, giải vây thành công cho Hàm Đan.

13. Sáng theo Tần, tối theo Sở

Thời Chiến Quốc, tranh chấp giữa Tần và Sở diễn ra liên tục, các chư hầu quốc căn cứ vào lợi ích mà lúc giúp Tần, lúc theo Sở. Từ đó hình thành thành ngữ mô tả tình trạng các nhóm và cá nhân trong bối cảnh các cường quốc tranh giành ảnh hưởng, thường xuyên thay đổi thái độ, không kiên định, hay thay đổi thất thường.

14. Đồ cùng thì bỉ kiến — Bộc lộ dao găm khi bản đồ hết chỗ

Năm 227 trước Công Nguyên, thái tử Đan nước Yên sai Kinh Kha đến nước Tần ám sát vua Tần Doanh Chính, diễn ra một cảnh bi tráng. Khi chia tay thái tử Đan, Kinh Kha hát:

“Gió hiu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê,
Tráng sĩ một đi không trở về”

Đến nước Tần, Kinh Kha mua chuộc quan lại sủng ái của vua Tần bằng số tiền lớn, được gặp vua. Kinh Kha giả vờ dâng bản đồ khu vực Đốc Khương cho vua Tần. Khi vua mở bản đồ, Kinh Kha liền rút dao găm giấu trong bản đồ đâm vua Tần. Vua Tần hoảng hốt, nhanh chóng tránh né. Kinh Kha bị võ sĩ nước Tần giết chết.

15. Nằm trên củi, nếm mật nằm gai

Cuối thời Xuân Thu, các nước phía Nam là Ngô và Việt cũng tham gia cuộc chiến tranh bá quyền. Ngô vương Phù Sai đánh bại và bắt sống Việt vương Câu Tiễn. Câu Tiễn phải làm việc cho Phù Sai, nuôi ngựa suốt ba năm, chịu đủ đau khổ, nhục nhã vô cùng.

Sau khi trở về nước, Câu Tiễn quyết chí báo thù phục quốc, nhờ Phạm Lãi giúp đỡ huấn luyện quân đội, trọng dụng người tài đức, tự mình tham gia lao động và kiên trì ngủ trên đống rơm rạ, trước mỗi bữa ăn đều nếm một chút mật đắng để nhắc nhở bản thân. Trải qua mười năm tích lũy sức mạnh và mười năm rèn luyện, cuối cùng ông đã tiêu diệt nước Ngô.

16. Yêu thiếp khinh vua

Xuất xứ từ “Hàn Phi Tử – Ngoại trữ thuyết tả thượng”:Năm xưa, Tần Mục Công gả con gái Hoài Doanh cho công tử nước Tấn, sính lễ cực kỳ hậu hĩnh. Đội nữ tỳ theo hầu mang toàn trang phục rực rỡ, mỹ lệ – tổng cộng hơn 70 người.

Khi đến nước Tấn, người Tấn thấy các nữ tỳ đi theo đều xinh đẹp, mê mẩn đến mức muốn cướp về làm thiếp. Họ thậm chí còn cho rằng vua Tần còn không đẹp bằng các nữ tỳ, từ đó xem thường quốc chủ.

Điển cố này được Hàn Phi đưa ra nhằm phản bác chuyện “trọng hình thức mà quên giá trị cốt lõi”. Sau này, điển cố “Yêu thiếp khinh vua” được dùng để chỉ hành vi bỏ gốc lấy ngọn, trọng tiểu tiết mà bỏ quên đại cục.

17. Bạch hồng quán nhật (Cầu vồng trắng xuyên mặt trời)

Xuất xứ từ “Chiến Quốc sách – Ngụy sách IV”:

Nhiếp Chính là người nước Hàn (ở Chỉ). Vì giết người mà phải bỏ trốn sang Tề, sống bằng nghề giết mổ. Quan đại thần nước Hàn là Nghiêm Toại muốn ám sát kẻ thù chính trị – tướng quốc Hàn Khôi – bèn tặng vàng cho mẹ của Nhiếp Chính để lấy lòng và nhờ ông giúp.

Lúc đầu, vì mẹ còn sống, Nhiếp Chính từ chối. Sau khi mẹ mất, ông cầm kiếm hành thích, giết được Hàn Khôi, và bị giết. Trước đó, trời xuất hiện dị tượng: cầu vồng trắng xuyên mặt trời – điềm báo đại họa cho vua. Đây được cho là “thiên đạo cảm ứng trước tấm lòng kiên cường và chính nghĩa.”

18. Tất Vạn xương đại (Họ Bật hưng thịnh)

Xuất xứ từ “Tả truyện – Mẫn Công nguyên niên”:

Thời Xuân Thu, Tấn Hiến Công diệt nước Ngụy, ban vùng đất Ngụy cho đại thần Bật Vạn. Quan bói tên Bốc Yển nói: “Con cháu họ Bật sau này ắt sẽ hưng thịnh. Vì ‘Vạn’ là con số lớn, ‘Ngụy’ là danh xưng vĩ đại. Nay Ngụy trao cho Bật Vạn là thiên ý khởi phát cho hậu thế ông ta.”

Quả nhiên, đời sau của Bật Vạn thành lập nước Ngụy thời Chiến Quốc. Từ đó, câu “Tất Vạn xương đại” được dùng để ví von người có con cháu phát đạt, hưng thịnh lâu dài.

19. Ôm băng, nắm lửa

Xuất xứ từ “Ngô Việt Xuân Thu – Câu Tiễn quy quốc ngoại truyện”:

Để rèn luyện ý chí, Việt Vương Câu Tiễn thường sống cực khổ: mùa đông ôm băng, mùa hè cầm lửa. Ông sống giản dị, chăm lo quốc chính, kết giao chư hầu. Mười năm tích trữ, mười năm giáo huấn, cuối cùng phục quốc, diệt nước Ngô.

Sau này, “ôm băng, nắm lửa” dùng để chỉ người sống gian khổ để rèn luyện bản thân hoặc hoàn cảnh sống cực kỳ khó khăn.

20.Thường tồn bão trụ tín (Luôn giữ lời thề nơi chân cột)

Xuất xứ từ “Trang Tử – Đạo Trích”:

Vĩ Sinh và người con gái ông yêu hẹn nhau dưới cầu bên sông. Đến khi nước dâng, cô gái vẫn không đến, nhưng Vĩ Sinh vẫn kiên trì ôm cột chờ đến chết, không chịu thất hứa.

Ông trung thành với lời thề, vì yêu mà giữ trọn chữ tín. Sau này, “bão trụ tín” (ôm cột giữ lời) được dùng để chỉ những người kiên trì giữ lời hứa, nhất là trong tình yêu đôi lứa.

Theo Secret China
Bình Nhi biên dịch

Đọc tiếp