Công dụng tối thượng của âm nhạc (Phần 2)

Công dụng tối thượng của âm nhạc (Phần 2)
Ảnh: Shen Yun.

Mục đích của các bậc Thánh vương thời cổ khi đặt định ra lễ nhạc, không phải để thỏa mãn nhu cầu hưởng lạc của con người, mà là nhằm dẫn dắt con người biết tiết chế cảm xúc yêu – ghét, từ đó quay trở lại với chính đạo làm người.

Chính đạo làm người, tức là con đường mà các Thánh vương căn cứ vào Đạo Trời Đất để xây dựng nên hệ thống chuẩn mực đạo đức, quy phạm hành vi cho nhân loại. Và đó chính là “Lễ”.

Lễ và nhạc có mối quan hệ mật thiết, tương hỗ và bổ trợ lẫn nhau. Sức mạnh lớn lao của nó chính là cảm hóa lòng người, cải biến phong tục là ở chỗ thấm nhuần một cách âm thầm, bền bỉ. Khi vũ nhạc đoan chính, thì lòng người cũng chính; lòng người chính thì hành vi cũng chính. Khi ai nấy đều biết an phận, giữ đúng vị trí của mình, thì xã hội tự nhiên ổn định, quốc gia thái bình. Ngược lại, khi vũ nhạc hỗn loạn là dấu hiệu của lòng người dao động, bất an, lâu dần tất sẽ dẫn đến lễ băng, nhạc hoại, xã hội rơi vào rối ren, suy đồi và vô pháp vô thiên. Vì thế, vào cuối thời Xuân Thu, khi lễ nhạc đã suy tàn, Khổng Tử đau xót mà cảm thán: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”, Nghĩa là: “Điều gì trái lễ thì chớ nhìn, trái lễ thì chớ nghe, trái lễ thì chớ nói, trái lễ thì chớ làm”.

Ở nước Lỗ, họ Quý thị tổ chức vũ nhạc “bát dật” trong sân nhà mình. Khổng Tử tức giận thốt lên: “Việc này mà còn có thể chịu được, thì còn việc gì là không thể chịu được nữa!”Chữ “dật” (佾) trong cổ lễ chỉ hàng ngũ của nhạc vũ, đồng thời cũng là biểu tượng cho địa vị xã hội và cấp bậc nghi lễ.  Theo chế độ lễ nhạc cổ đại, một dật là một hàng có tám người, còn “bát dật” là tám hàng, tổng cộng sáu mươi tư người tham gia vũ nhạc. Trong Chu Lễ có quy định rõ ràng:

  • Thiên tử mới được dùng bát dật,
  • Chư hầu chỉ được dùng lục dật,
  • Đại phu được dùng tứ dật,
  • Sĩ chỉ được dùng nhị dật.

Thế nhưng, Quý thị vốn chỉ là ở địa vị chính khanh của nước Lỗ, địa vị tương ứng với bậc đại phu, chỉ được phép dùng tứ dật — vậy mà lại tự tiện dùng đến bát dật, vượt lễ chế của Thiên tử. Đối với Khổng Tử, hành vi xâm phạm và phá vỡ trật tự lễ nghi ấy là điều vô cùng đáng phẫn nộ. Vì vậy, khi bàn về Quý thị, ông đã nghiêm khắc nói:“Trong sân nhà miếu của hắn mà còn dám dùng điệu vũ bát dật — việc như thế mà cũng có thể dung thứ được ư? Nếu đến cả điều đó cũng nhịn được, thì còn chuyện gì là không thể nhịn nữa!”

Điệu “bát dật” được múa trong sân nhà Quý thị, thoạt nhìn tưởng như chỉ là một chuyện nhỏ, nhưng thực chất lại là hành vi phá vỡ lễ chế – nền tảng giữ gìn trật tự và ổn định của xã hội. Việc làm ấy không chỉ ảnh hưởng đến nước Lỗ, mà còn đe dọa đến trật tự đạo lý của thiên hạ, bởi lễ chế chính là mối dây ràng buộc giữa vua – tôi, cha – con, trên – dưới. Chính vì nhận rõ mối nguy tiềm ẩn sâu xa ấy, nên Khổng Tử mới phẫn nộ tột cùng, coi đó không phải là chuyện lễ nghi vụn vặt, mà là dấu hiệu của lễ băng nhạc hoại, đạo đức suy vi, báo trước thời thế rối ren.

Giống như âm nhạc tao nhã có thể cộng hưởng với thần linh của trời đất, báo hiệu điềm lành, âm nhạc bất chính cũng có thể khiến thần linh nổi giận và mang đến tai họa. Năm xưa khi Trụ vương thời nhà Thương, mặc dù là Thiên tử, đã không tôn trọng Đạo Trời và không lắng nghe âm nhạc tao nhã phù hợp với đức hạnh của Trời Đất. Thay vào đó, ông đã ra lệnh cho nhạc công Sư Diên soạn nhạc phóng túng suốt đêm, dẫn đến sự sụp đổ của vương quốc. Khi Vũ Vương phạt Trụ, ngay cả Sư Diên cũng đã tự tử dưới sông Bồ, tay ôm chặt cây đàn của mình.

Thời Xuân Thu, Vệ Linh Công đi sang nước Tấn, giữa đường nghỉ lại bên bờ sông Bộc. Nửa đêm nghe thấy tiếng đàn cầm vang lên, bèn hỏi người hầu hai bên, nhưng ai nấy đều nói không nghe thấy gì. Ông liền gọi nhạc sư Sư Quyên đến và nói: “Ta rõ ràng nghe thấy tiếng đàn, hỏi người xung quanh thì chẳng ai nghe được. Có lẽ đó là tiếng đàn của quỷ thần chăng? Ngươi hãy lắng nghe kỹ và ghi lại cho ta.” Sư Quyên bèn ngồi ngay ngắn, gảy đàn cầm, vừa nghe vừa ghi nhớ, bận rộn suốt một đêm. Đêm hôm sau, ông lại luyện tập suốt cả đêm nữa. Sau đó, ông theo Vệ Linh Công tiếp tục lên đường sang nước Tấn.

Tấn Bình Công mở yến tiệc chiêu đãi phái đoàn của Vệ Linh Công. Khi tiệc rượu đang vào lúc hứng khởi, Vệ Linh Công nói: “Trên đường sang quý quốc, trẫm nghe được một khúc nhạc lạ, nay xin được tấu lên để ngài thưởng thức.” Tấn Bình Công liền bảo Sư Quyên ngồi cạnh nhạc sư Sư Khoáng của nước Tấn để cùng trình diễn. Sư Quyên vừa mới tấu chưa xong, thì Sư Khoáng đã đưa tay ấn lên dây đàn, ngăn lại và nói: “Đây là vong quốc chi âm — âm thanh của nước mất, không thể tấu tiếp được!” Tấn Bình Công lấy làm khó hiểu, bèn hỏi nguyên do. Sư Khoáng đáp: “Khúc nhạc này là do Sư Diên sáng tác. Xưa kia, Sư Diên từng gảy khúc nhạc này cho Trụ Vương nghe — một khúc nhạc phù phiếm, mê loạn. Về sau, khi Vũ Vương chinh phạt Trụ Vương, Sư Diên bỏ trốn về phía Đông, ôm đàn gieo mình xuống sông Bộc mà chết. Bởi vậy, nơi nào nghe được khúc nhạc này, ắt chính là bên bờ sông Bộc. Và người đầu tiên nghe được khúc này — nước của họ nhất định sẽ suy vong!” Tấn Bình Công nói: “Trẫm vốn yêu âm nhạc, cứ để ta nghe hết khúc này đi.” Thế là Sư Quyên lại tiếp tục tấu đàn cho đến khi khúc nhạc kết thúc.

Tấn Bình Công hỏi Sư Khoáng: “Trong âm nhạc, còn có khúc nào cảm động hơn khúc này nữa không?” Sư Khoáng đáp: “Có.” Tấn Bình Công muốn nghe, nhưng Sư Khoáng nói: “Đức hạnh và tu dưỡng của bệ hạ chưa đủ để nghe khúc ấy.” Tấn Bình Công nhất quyết đòi nghe, Sư Khoáng đành phải gảy đàn. Khi tấu đến đoạn thứ nhất, liền có mười sáu con hạc đen bay đến, tụ tập trước cửa hành lang. Khi tấu đến đoạn thứ hai, những con hạc ấy vươn cổ cất tiếng hót, dang cánh nhảy múa.

Tấn Bình Công mừng rỡ, đứng dậy rót rượu mời Sư Khoáng. Sau khi ngồi xuống, ông lại hỏi: “Có khúc nào còn cảm động hơn nữa không?” Sư Khoáng nói: “Có. Ngày xưa Hoàng Đế từng dùng khúc nhạc này để triệu tập quỷ thần. Nay đức hạnh và tu dưỡng của bệ hạ chưa đủ sâu, không nên nghe khúc này. Nếu nghe, sẽ gặp tai họa.” Tấn Bình Công đáp: “Ta đã già, điều yêu thích nhất là âm nhạc, cứ để ta nghe thử đi.” Sư Khoáng đành bất lực, chỉ còn cách cầm đàn tấu lên. Khi tấu đến đoạn thứ nhất mây trắng từ phương Tây Bắc cuồn cuộn kéo đến. Khi tấu đến đoạn thứ hai gió lớn nổi lên, mưa dầm theo sát, ngói hành lang bị thổi bay. Các quan bên cạnh ai nấy hoảng sợ, chạy tán loạn khắp nơi, tìm cách thoát thân. Tấn Bình Công sợ hãi bò trốn vào một căn phòng bên hành lang để tránh mưa gió và tai họa.

Kể từ đó, nước Tấn hạn hán kéo dài ba năm, cánh đồng khô cằn trải dài ngàn dặm, và Tấn Bình Công từ đó mắc bệnh nặng, không bao giờ khỏi lại.

Cùng một khúc nhạc, Hoàng Đế nghe thì gặp cát tường, còn Tấn Bình Công nghe lại mang họa. Tại sao lại như vậy? Chính vì đức hạnh cao thấp khác nhau và mục đích khi nghe nhạc cũng khác nhau. Âm nhạc cao quý, tao nhã là thứ mà bậc quân tử dùng để tu dưỡng đạo nghĩa. Hoàng Đế với tư cách Thiên tử, hợp với đức trời, đã tấu khúc nhạc hòa hợp với trời đất để tạ ơn Thần linh và trời đất, đây là hành động hợp đạo, đạt được sự nhất thể giữa trời và người, tất nhiên gặp điều lành. Còn Tấn Bình Công, chỉ là bậc chư hầu, đức hạnh còn chưa bằng một chư hầu, lại nhất quyết muốn nghe khúc nhạc hợp trời đất, nhưng chỉ để thỏa mãn thính giác và thị giác của riêng mình. Hành vi dùng nhạc hợp trời để thỏa mãn dục vọng cá nhân như vậy, không những không giúp tu dưỡng đạo nghĩa, mà còn kích thích dục vọng và vọng niệm của con người. Đây là sự xúc phạm thần linh trời đất, phá hoại đại lễ và đại nhạc — thử hỏi làm sao không chịu sự trừng phạt của Trời!

Từ Tử nói: “Vinh nhục đến với con người, tất phải phản ánh đức hạnh của họ.” Điềm lành, Trời phù trợ hay tai họa, Trời trừng phạt đều do chính lòng người mà sinh ra. “Hoàng Đế Nội Kinh” có viết: “Chính khí tồn nội, tà không thể xâm phạm”; “Thanh thản, nhàn rỗi, để cho khí chân theo, tinh thần tự giữ bên trong, bệnh từ đâu mà đến?” Giả sử Tấn Bình Công nghe theo lời khuyên của Sư Khoáng, tiết chế dục vọng, tu dưỡng đức hạnh, không nghĩ đến điều trái phép, thanh thản nhàn rỗi, giữ gìn tinh thần bên trong, mọi nơi đều nghiêm chỉnh tuân theo lễ nghi chư hầu, thì ông chỉ nhận được phúc lành và sự phù hộ của Trời, làm sao lại kéo theo người dân nước Tấn cùng chịu tai họa được?

“Sử ký - Nhạc thư” viết: Các thánh vương thời cổ đại đặt ra và thực hành Nhạc nhã không phải để giải trí lòng người, thỏa mãn dục vọng, mà là để chỉnh đốn cai trị thiên hạ. Giáo hóa ngay thẳng đều bắt đầu từ âm nhạc ngay chính. Âm nhạc ngay thẳng, con người hành xử cũng ngay thẳng. Nhạc nhã có thể tác động tới huyết mạch, khai thông tinh thần và điều chỉnh cả thân và nhân tâm con người. Nói cách khác, Nhạc nhã điều hòa tâm tính bên trong, đồng thời phân định địa vị và vai trò xã hội bên ngoài. Lễ nghi tác động từ hành vi bề ngoài, âm nhạc tác động trực tiếp đến tâm hồn và nội tâm con người. Do đó, bậc quân tử không thể rời lễ nghi dù một khoảnh khắc; nếu rời lễ nghi, thì hành vi hung ác và kiêu căng sẽ xâm nhập và làm tổn hại đến bề ngoài. Không thể rời Nhạc nhã dù một khoảnh khắc; nếu rời Nhạc nhã, thì suy nghĩ gian trá và ác độc sẽ xâm nhập, ăn mòn nội tâm. Nhạc nhã là công cụ mà quân tử dùng để tu dưỡng đức hạnh và ngăn ngừa sự dâm đãng. Bởi vì hành vi dâm đãng phát sinh là do thiếu sự ràng buộc của lễ nghi. Vì vậy, các bậc thánh vương xưa bắt mọi người tai nghe âm nhạc ‘Nhã’ và ‘Tụng’, mắt nhìn lễ nghi uy nghi, bước đi tỏ thái độ cung kính, miệng nói đạo nhân nghĩa. Như vậy, quân tử dù cả ngày giao tiếp với người khác, cũng không để những điều xấu ác xâm nhập vào thân và nhân tâm.

Ngôn hành của vua tôi, trên dưới, toàn dân trong cả nước, nếu tai mắt đều tuân theo Đại nhạc và Đại lễ mà vẫn còn có việc thế giới không yên, thì từ xưa đến nay, chưa từng nghe thấy.

Theo Sound of Hope
Bảo Hân biên dịch

Đọc tiếp