Mạn đàm về số phận các Thoa trong Hồng Lâu Mộng - Phần 1: Hương Lăng

Mạn đàm về số phận các Thoa trong Hồng Lâu Mộng - Phần 1: Hương Lăng
Mạn đàm về số phận các Thoa trong Hồng Lâu Mộng - Phần 1: Hương Lăng (Ảnh: Public Domain)

Trong các nhân vật được tác giả Tào Tuyết Cần khắc họa ở Hồng Lâu Mộng, các thiếu nữ, thiếu phụ, ni cô, người hầu gái, và những đào kép nữ bên trong và bên ngoài Đại Quan Viên là được mọi người chú ý nhất. Những hỷ nộ ai lạc, thăng trầm, hợp tan của họ lúc nào cũng lay động lòng người đọc. Họ cho chúng ta thấy, trong muôn hình vạn trạng đủ kiểu phụ nữ, dù thân phận có cao quý hay thấp hèn đến đâu, hay dù trong đối nhân xử thế ngang ngược, ôn nhu hiền dịu tới đâu, đều không thoát được cái gọi là "số phận" ẩn chứa trong sinh mệnh đường đời của mình.

Bây giờ, chúng ta hãy bắt đầu bằng trích đoạn từ kiệt tác "Hồng Lâu Mộng", những tiết lộ của tác giả về "số phận" của Hương Lăng, và cùng nhau chiêm nghiệm. Tuy nhiên, tên thời thơ ấu của nàng không phải là Hương Lăng, mà là Anh Liên.

1. Tăng nhân dự đoán Anh Liên sẽ "liên lụy đến cha mẹ"

Anh Liên là thoa đầu tiên xuất hiện trong "Hồng  Lâu Mộng". Đương nhiên không phải ngay từ đầu đã xuất hiện trong Đại Quan Viên, mà là xuất hiện tại quê nhà nàng ở Cô Tô, tức Tô Châu ngày nay. Nơi đây từ cổ xưa được gọi là mảnh đất phong lưu xa hoa phú quý bậc nhất, nhì trong cõi hồng trần. Nàng sinh ra trong gia đình quan lại, cha là Chân Sĩ Ẩn, tính tình điềm đạm, phòng khoáng; mẹ là Phong Thị, tính tình hiền thục, am hiểu lễ nghĩa. Hai ông bà già nửa đời người chỉ có mụn con gái là Anh Liên. Với vẻ đẹp thanh tú, dịu dàng và ngọt ngào, cô bé chính là niềm kiêu hãnh, viên ngọc quý của cha mẹ. 

"Ngày nọ Sĩ Ẩn ẵm con ra ngoài phố xem người qua lại nhộn nhịp. Khi sắp đi về thấy một nhà sư, một đạo sĩ đi lại. Nhà sư đầu chốc, đi đất, đạo sĩ chân khiễng, tóc bù đang cười cười nói nói, như dại như điên. Đến trước cửa, trông thấy Sĩ Ẩn ẵm Anh Liên, nhà sư khóc to lên: Thí chủ! Con bé này có mệnh không có vận, làm lụy đến cha mẹ, thí chủ ẵm nó làm gì? Sĩ Ẩn nghe nói, cho là rồ dại không thèm chấp. Nhà sư thấy thế lại nói:

- Thí chủ cho tôi cho! Thí chủ cho tôi cho!

Sĩ Ẩn khó chịu, ẵm ngay con toan quay vào nhà. Nhà sư trỏ vào Sĩ Ẩn cười ồ lên, rồi đọc ngay bốn câu:

"Chú ngốc nuông con khéo nực cười,
Gương lăng luống để tuyết pha phôi,
Nguyên tiêu đêm ấy coi chừng đấy,
Lửa khói tan tành sắp tới nơi"

Thông thường độc giả thường ít lưu ý tới những tình tiết được miêu tả như thế này trong tác phẩm, nhiều nhất cũng chỉ coi đó là kỹ xảo của tác giả, là phục bút để dẫn dắt, thu hút người đọc. Ngay cả khi những lời tiên tri trở thành sự thật, chúng cũng chỉ được coi là những lời tự bào chữa mà thôi. Tuy nhiên, khi tổng hợp đọc lại một lần nữa, không khó để phát hiện, dù là các bài thơ trong ảo mộng mà Bảo Ngọc đọc được, ca từ nghe được, hay những bài thơ mà các tài nữ trong vườn Đại Quan Viên sáng tác, thậm chí đố đèn trong phần miêu tả về ngày tết, hay những điển cố được các phụ nữ trong thôn đọc vè, thường ẩn chứa những điềm báo hiệu mà ta không thể coi nhẹ. Tất cả "mười hai thoa" trong tác phẩm đều sống, kết hôn và cuối cùng chết theo "số phận" của họ như đã được tiên tri. Chân Sĩ Ẩn được miêu tả dưới ngòi bút của Tào Tuyết Cần, một nhân thông minh, trí tuệ dẫn dắt chúng ta cùng đọc hiểu bộ kỳ thư này, ông nghe được lời của hòa thượng, "và rồi ta tự nhủ: "“Hai người này tất có lai lịch, đáng lẽ ta nên hỏi rõ mới phải, bây giờ ăn năn cũng muộn rồi”.

Đến tết Nguyên Tiêu năm sau (15 tháng Giêng âm lịch) không ai còn nhớ đến câu thơ cảnh cáo của hòa thượng kia "Nguyên tiêu đêm ấy coi chừng đấy". Tết Nguyên Tiêu ở Trung Quốc còn được gọi là tết đèn lồng, là lễ tiết vô cùng náo nhiệt trong dân gian của Trung Hoa. Phong tục thưởng đèn, chơi trăng hấp dẫn như vậy sao có thể không cho Anh Liên đi xem được. Tuy nhiên không ai ngờ tới, khi người làm ẵm Anh Liên ra phố ngắm đèn, đột nhiên trong nháy mắt thì để lạc. Người hầu tìm cả đêm nhưng không thấy, cũng không dám về nhà chủ, liền bỏ trốn về nhà mình. Sống nửa đời người hai vợ chồng Chân Sĩ Ẩn mới được mụn con gái, giờ đột nhiên bị thất lạc thì đau khổ sống không bằng chết. Vì thế ngày đêm than khóc, dở chết dở sống. Một tháng sau, vì thương nhớ con Sĩ Ẩn bị ốm, vợ là họ Phong cũng ốm, ngày ngày thuốc thang bói toán. Vợ chồng Chân Sĩ Ẩn không chỉ phải hứng chịu nỗi đau mất con, mà còn như người xưa thường giảng "Họa vô đơn chí".  Đến rằm tháng Ba, trong miếu Hồ Lô bày cỗ cúng Phật, hòa thượng không cẩn thận để chảo dầu bốc cháy lan ra giấy dán cửa sổ. Các nhà ở vùng ấy đều giậu tre vách ván, dường như đó cũng là số kiếp phải chịu, nên cứ nhà nọ cháy sang nhà kia, cả phố bốc lên như núi lửa. Bấy giờ tuy có quân dân đến chữa, nhưng lửa đã cháy to, không sao cứu được! Cháy suốt một đêm mới tắt, bao nhiêu nhà đều hóa ra tro. Đáng thương nhất là nhà họ Chân ở ngay liền miếu, chỉ còn trơ lại một đống ngói gạch vụn. Những tai họa thi nhau ập tới liên tiếp, hỏi vợ hồng Sĩ Ẩn gánh chịu như thế nào? Một người gần đến tuổi già như Sĩ Ẩn, chịu sao nổi cảnh đau ốm và nghèo khổ giày vò, dần dần càng ngày càng cảm thấy quang cảnh tiêu điều.

2. Chân Sĩ Ẩn hiểu ra ẩn ý của "Hảo Liễu Ca" liền đi theo hòa thượng

Một hôm, Sĩ Ẩn chống gậy ra phố chơi cho đỡ buồn, chợt thấy một vị đạo sĩ khiễng chân, giày gai áo rách, ngông cuồng phóng túng, tập tễnh đi đến, miệng đọc mấy câu:

Người đời đều cho thần tiên hay,
Mà chuyện công danh lại vẫn say!
Xưa nay tướng soái nơi nào đây,
Một dãy mồ hoang cỏ mọc đầy!
Người đời đều cho thần tiên hay.
Những hám vàng bạc lòng không khuây!
Suốt ngày những mong chứa cho đầy,
Đến lúc đầy rồi nhắm mắt ngay!
Người đời đều cho thần tiên hay!
Nhưng thích vợ đẹp lòng không khuây!
Lúc sống ái ân kể suốt ngày,
Lúc chết liền bỏ theo người ngay!
Người đời đều cho thần tiên hay!
Muốn đông con cháu lòng không khuây!
Xưa nay cha mẹ thực khờ thay,
Con hiền cháu thảo ai thấy đây!!

Ban đầu Sĩ Ẩn chỉ nghe thấy hai từ "Hảo" "'Liễu", "Hảo" "Liễu", liền chạy tới trò chuyện với vị đạo sĩ. Đạo sĩ cười đáp: Nếu đã nghe thấy hai chữ “hảo” và “liễu” thì cũng đáng khen cho ngươi là sáng suốt. Phải biết muôn việc ở đời “hảo” tức là “liễu”, “liễu” tức là “hảo”, nếu không “liễu” thì không “hảo”, mà muốn “hảo” thì phải “liễu”. Vì thế bài hát này ta gọi là bài “hảo liễu ca”. Sĩ Ẩn nghe xong đột nhiên tỉnh ngộ và lập tức giải nghĩa từ hiểu biết của chính mình. Đạo sĩ nói: "Giải nghĩa rất đúng! Giải nghĩa rất đúng!". Sĩ Ẩn nói: "Chúng ta đi thôi". Rồi đỡ ngay cái nải trên vai đạo sĩ, đeo lên lưng, cùng với đạo sĩ ra đi vùn vụt, không về nhà nữa.

Từ đây, nhân vật Chân Sĩ Ẩn coi như biết mất trong tác phẩm. Tào Tuyết Cần thông qua bộ sách Hồng Lâu Mộng này muốn nói "chân lý" với con người thế gian, nhưng cũng lại muốn "ẩn" đi. Vậy rốt cuộc "chân lý" được ẩn đi ấy là gì, các Hồng Học Gia đưa ra rất nhiều suy đoán. Chỉ cần chúng ta thoát khỏi những ràng buộc của "chủ nghĩa vô thần" và ảnh hưởng tai hại của "văn hóa Đảng", độc giả của "Hồng Lâu Mộng" sẽ không bỏ qua cốt truyện được mô tả ở trên. Hơn nữa, từ những trải nghiệm cuộc sống của một nhân vật phụ, chúng ta sẽ hiểu được "chân lý" mà tác giả đã ẩn giấu trong kiệt tác này.

3. "Lăng hoa không đối tuyết tư tư - Gương lăng luống để tuyết pha phôi" 

Tiếp theo chúng ta hãy cùng xem câu "Gương lăng luống để tuyết pha phôi" là báo trước điều gì, hiện thực diễn ra như thế nào?

Trong Hồng Lâu Mộng có một hồi kể lại sự việc này, có tựa đề: "Gái bạc mệnh gặp trai bạc mệnh; Sư Hồ lô xử án Hồ lô" nói về việc kẻ buôn bán phụ nữ và trẻ nhỏ. Người con gái bị bán này chính là cô bé Anh Liên bị bắt cóc vào tết nguyên tiêu năm nào. Tên dỗ người này chuyên đi dỗ con gái bé năm sáu tuổi mang về nơi hẻo lánh nuôi đến mười một mười hai tuổi, rồi lại đem đi chỗ khác bán. Anh Liên vốn bị bán cho một công tử tên Phùng Uyên. Người này bố mẹ chết sớm, không có anh em, sống nhờ một cái gia tài nhỏ, tuổi chừng mười tám, mười chín, tính thích chơi bời với đàn ông, không gần gũi con gái. Nhưng đây cũng là oan nghiệp kiếp trước để lại. Một hôm, anh ta ngẫu nhiên gặp nữ tỳ này, nhất định mua về làm thiếp, thề không chơi bời với đàn ông và cũng không lấy người thứ hai nào nữa. Vì thế, việc mua này, đối với anh ta, coi là trịnh trọng lắm, hẹn ba hôm sau, tốt ngày, mới đón về. 

Ngờ đâu đứa bán người lại ngấm ngầm đem nữ tỳ bán cho nhà họ Tiết. Nó muốn cuỗm tiền của cả đôi bên rồi trốn đi. Ai hay nó chạy không thoát, cả hai đều bắt được, đánh nó gần chết. Nhưng sau đó không nhà nào muốn lấy lại tiền, chỉ đòi lấy người. Công tử họ Tiết sai đầy tớ đánh công tử họ Phùng một trận nhừ tử, khiêng về nhà, ba ngày sau thì chết. Tiết công tử đã chọn ngày vào kinh. Trước đó hai ngày, ngẫu nhiên gặp con nữ tỳ này, Tiết công tử định mua rồi đem nó lên kinh một thể, ngờ đâu chuyện xảy ra, hắn đánh Phùng công tử cướp lấy nữ tỳ, rồi thản nhiên coi như không có việc gì. Chỉ đáng tiếc cho vị Phùng công tử kia, mặc dù người nhà vì anh ta đi kêu oan, nhưng gặp phải những quan lại tham nhũng chỉ biết nịnh bợ nhà giàu, và vụ án đã thất bại. Thật lãng phí tiền bạc, và cuộc đời hắn cũng bị hủy hoại.

Khi tên què mang bán nữ tỳ này, gây ra việc kiện tụng liên quan tới mạng người, có một người nhận ra nha đầu này chính là Anh Liên. Người này hiện làm sai nha trong nha môn, ông ta từng là tiểu hòa thượng trong miếu Hồ Lô, khi còn nhỏ thường cùng Anh Liên chơi đùa. Sau trận hỏa hoạn năm đó, ông ta hoàn tục và xin làm nha dịch. Khi tên què đưa người tới đây bán, từng thuê phòng ở nhà nha dịch này. Khi nhìn thấy một nốt ruồi đỏ bằng hạt gạo ở lông mày nữ tì, ông ta liền nhận ra đó là Anh Liên, con gái của Chân Sĩ Ẩn. Một hôm nhân tên buôn người đi vắng, người nha dịch này có tới hỏi han, nhưng Anh Liên chỉ khóc và nói không nhớ những sự việc khi nhỏ. Người nha dịch này từng nghĩ, nếu Anh Liên có thể đi theo Phùng Uyên, có lẽ sẽ được yên thân, ngóc đầu lên được. Chẳng ngờ rằng lại rơi vào tay công tử họ Tiết nổi tiếng là “vua ngốc”, liều lĩnh, nóng nảy nhất hạng, quẳng tiền như đất. 

Anh Liên được người nhà họ Tiết đưa tới kinh thành, vào Vinh Quốc phủ. Mọi người đều biết nàng là do Tiết Bàn mua về, hơn nữa còn vì việc này mà xảy ra án mạng. Có người hỏi nàng: "Mấy tuổi? Tên là gì? Cha mẹ ở đâu". Nàng chỉ lắc đầu nói "Không nhớ". Sau đó Tiết Bảo Thoa, em ruột của Tiết Bàn đặt cho nàng cái tên Hương Lăng.

Chữ "薛" - Tiết trong từ "薛蟠" Tiết Bàn, có âm đọc giống như từ "雪" Tuyết. "Gương lăng luống để tuyết pha phôi" chính là nói, trong sinh mệnh đường đời kiếp này của Hương Lăng là phải đối diện với tên "vua ngốc" Tiết Bàn này. Tuy nhiên ở đây lại nói lệch đi không nói là "đối diện" mà là "không đối" chính là muốn ám chỉ điều gì? quả thực không thể không làm người ta lo lắng cho Hương Lăng. 

(Còn tiếp)

Theo Xinsheng.net
Bình Nhi biên dịch