Nguyên nhân đằng sau việc Bảo Ngọc và Đại Ngọc gặp lại nhau ở thế gian

Nguyên nhân đằng sau việc Bảo Ngọc và Đại Ngọc gặp lại nhau ở thế gian
Nguyên nhân đằng sau việc Bảo Ngọc và Đại Ngọc gặp lại nhau ở thế gian. (Ảnh: Public Domain)

Mọi sinh mệnh đều là có lai lịch, sứ mệnh và mục đích khi đến thế gian, và sự gặp gỡ có lẽ là duyên từ trước đó.

Lần đầu Đại Ngọc và Bảo ngọc gặp nhau là ở Giả phủ. Mẹ Đại Ngọc mất sớm, Giả Mẫu bà ngoại của nàng đã cử người đón nàng từ Tô Châu vào kinh, giữ bên mình và nuôi dưỡng. Vào thời điểm đó, Đại Ngọc khoảng sáu hoặc bảy tuổi. Đại Ngọc và Bảo Ngọc gặp nhau lần đầu tiên là trong phòng của Giả Mẫu. Lần đầu tiên nhìn thấy Bảo Ngọc, Đại Ngọc đã cảm thấy: “Đại Ngọc trông thấy, choáng người lên, nghĩ bụng: “Lạ thật! Hình như ta đã gặp ở đâu rồi, sao quen mặt thế!”

Đại Ngọc được miêu tả trong mắt của Bảo Ngọc khi đó là "Đôi lông mày điểm màu khói lạt, dường như cau mà lại không cau; đôi con mắt chứa chan tình tứ, dáng như vui mà lại không vui. Má hơi lúm, có vẻ âu sầu; Người hơi mệt trông càng tha thướt. Lệ rớm rưng rưng, hơi ra nhè nhẹ. Vẻ thư nhàn, hoa rọi mặt hồ; dáng đi đứng, liễu nghiêng trước gió.

Bảo Ngọc nhìn rồi cười nói: "- Hình như tôi đã được gặp cô em lần nào rồi"
Giả mẫu cười: "- Lại nói nhảm, đã gặp lần nào đâu?"
Bảo Ngọc cười nói: "- Tuy chưa gặp, nhưng trông mặt quen lắm, cũng coi như đã gặp nhau rồi."

Giả mẫu tất nhiên nghĩ rằng đây là lời nói của trẻ con, vì hai người từ khi sinh ra đã ở những nơi khác nhau, cô Lâm ở Tô Châu, còn Bảo Ngọc ở kinh đô, đường xa, chưa từng gặp mặt. Tuy nhiên vừa gặp đã thấy thân thiết, trong lòng cảm thấy như đã từng quen. Không những vậy Bảo Ngọc còn đặt tên chữ cho Đại Ngọc. 

Bảo Ngọc cười nói: "- Anh đặt tên cho em là Tần Tần nhé, hai chữ đó rất hay."

Thám Xuân hỏi: "- Hai chữ ấy xuất xứ ở đâu?"

Bảo Ngọc nói: "- Cổ kim nhân vật khảo có câu: Phương tây có thứ đá tên là đại, có thể dùng để kẻ lông mày. Huống chi cô em đầu lông mày nhìn như cau lại, đặt cho cái tên ấy chẳng đẹp lắm sao."

Tiên duyên từ thiên giới

Câu " Hình như tôi đã được gặp cô em lần nào rồi"" đã nêu ra vấn đề chính, bởi vì hai người đã gặp lại nhau sau khi chia tay. Tuy nhiên khi đi đầu thai, cả hai đều uống canh Mạnh Bà và quên đi tiền kiếp. Khi gặp lại nhau, họ chỉ cảm thấy quen thuộc và trong lòng cảm thấy thân thiết, nhưng họ không biết tại sao. Trong hồi đầu tiên của Mộng Hồng Lâu, Không Không đạo nhân đã giải thích về nguồn gốc của hòn đá thiêng.

Khi Nữ Oa vá trời, luyện được ba vạn sáu nghìn năm trăm linh một viên, mỗi viên cao mười hai trượng, vuông hai mươi bốn trượng. Nhưng bà chỉ dùng ba vạn sáu nghìn năm trăm viên, còn thừa một viên bỏ lại ở chân núi Thanh Ngạnh. Ngờ đâu viên đá này từ khi được luyện, đã có linh tính. Được Nữ Oa đặt dưới chân đỉnh Thanh Ngạnh trên thiên giới, vô minh và cùng tồn tại với trời và đất. Khoảng thời gian này chắc hẳn rất dài. Nữ Oa vá trời chính là trong thời kỳ xã hội nguyên thủy khi lũ lụt hoành hành.

Hiểu biết của chúng ta về giai đoạn văn minh đó là thời kỳ Đại Vũ trị thủy, và trình độ văn minh chỉ là làm ruộng và thắt dây để ghi lại sự việc. Cho đến khi viên đá nghe một nhà sư và một đạo sĩ trở về sau chuyến du ngoạn và cõi hồng trần, viên đá đã vô cùng ngưỡng mộ và khao khát được xuống thế giới để trải nghiệm sự phồn hoa nơi cõi phàm trần. Vào thời điểm này, triều đại mới đã hoàn thành thay thế triều đại cũ. Nơi mà hòn đá muốn đầu thai là quốc gia trung tâm nơi tất cả các quốc gia đến để cống nạp, với một nền văn minh thịnh vượng và thơ ca, sách vở và lễ nghi được truyền từ đời này sang đời khác. Và nơi hòn đá muốn đầu thai thành người thậm chí còn là nơi hòa nhã giàu có, thịnh  vượng trong thế gian.

Lâm Đại Ngọc có lai lịch như thế nào, và tại sao lại có mối liên hệ với viên đá thiêng này? Hóa ra Đại Ngọc là một cây Giáng Châu mọc tự do bên cạnh bên cạnh hòn đá Tam Sinh, bên bờ sông Linh Bà ở Tây phương. Có cung Xích Hà bên bờ sông Linh Bà. Thần Anh thị giả làm người hầu trong cung đi đi lại lại bên bờ sông. Ông nhìn thấy tư thế duyên dáng và cành lá xum xuê của cây Giáng Châu và vô cùng yêu thích, mỗi ngày đều lấy nước cam lồ tưới cho cây. Sau đó, cây cỏ tiên này biết rằng Thần Anh sẽ xuống thế gian, vì vậy sinh muốn theo ông xuống thế gian để trả ơn ông đã hàng ngày tưới nước cam lồ. Vậy trả ơn là trả cái gì? Nước mắt.

Thần Anh thị giả xuống thế gian, trở thành Giả Bảo Ngọc, quý công tử của Vinh quốc phủ. Bởi vì từ trong bụng mẹ chui ra, trong miệng ngậm một viên ngọc quý. Hai mặt của viên ngọc này khắc chữ: “Mạc thất mạc vong, tiên thọ hằng xương” (Nghĩa là: Đừng để mất cũng đừng quên, tiên thọ lâu dài mãi mãi), phía trên có câu đối: Thông linh Bảo Ngọc. Bởi vì Giả phủ đặt tên là theo thế hệ, nên vừa vặn thuộc thế hệ đặt tên có liên quan tới ngọc. Bảo Ngọc có một người anh trai tên là Giả Châu mất sớm, còn có hai người anh em họ là Giả Trân và Giả Liễn, tên đều có chữ "ngọc". Vì vậy cậu không cần đổi tên, chỉ cần gọi là Bảo Ngọc. Đây chính là nguồn gốc tên gọi Bảo Ngọc.

Còn Giáng Châu Tiên Tử hoàn trả nước cam lồ, thì đầu thai vào phủ của một hầu tước danh giá ở Tô Châu, gia đình nhà nho, là con gái duy nhất trong gia đình, được cha mẹ chăm sóc và yêu thương chu đáo. Mẹ của Lâm Đại Ngọc họ Giả, là phu nhân của phủ Vinh Quốc, là con gái ruột của Giả mẫu. Cha của Lâm Đại Ngọc là Lâm Như Hải, sinh ra trong phủ hầu đã kế thừa chức tước bốn đời. Đến thời Lâm Như Hải, theo quy định của triều đình, ông không còn được kế thừa chức tước nữa. Bản thân ông là một người có học, đỗ thứ ba trong kỳ thi đình, là Thám hoa của Lan Đại Phủ. Tất nhiên, không có chức tước cha truyền con nối, Lâm Như Hải cũng là một quan viên có tiếng tăm. Khi Lâm Đại Ngọc khoảng sáu tuổi, mẹ nàng qua đời, cha nàng rời Tô Châu đến Dương Châu nhận chức quan quản lý Đường muối Dương Châu.

Một tăng nhân và một đạo sĩ ở đầu câu chuyện, họ hóa thân thành hàng ngàn hình dạng, thường xuyên qua lại nơi nhân gian, hiện hữu khắp nơi, dự ngôn về vận mệnh của con người. Ví dụ, khi Đại Ngọc còn nhỏ, một nhà sư điên đã đến nhà cô và cảnh báo cô về số phận của mình, nói rằng nếu cô gái này muốn sống một cuộc sống bình yên, không nên gặp người ngoài và không bao giờ được rời xa cha mẹ mình, như thế mới có thể bảo toàn mạng sống. Tuy nhiên, vì mẹ của Đại Ngọc mất sớm, hai điều cấm kỵ này đã bị phá vỡ. Sau khi Đại Ngọc mất mẹ vào năm sáu tuổi, bà ngoại nàng là Giả Mẫu đã cử người đón nàng từ Tô Châu vào kinh, điều đó có nghĩa là phải rời xa cha mẹ và tự nhiên gặp phải rất nhiều người ngoài. Người đầu tiên phải gánh chịu hậu quả là anh họ Bảo Ngọc của nàng. Nàng gặp anh vì mong muốn trả món nợ cam lồ đã ấp ủ bấy lâu nay.

Chúng ta có thể rút ra một kết luận - sinh mệnh đều là có nguồn gốc. Mọi người tới nhân gian này, về bản chất, đều có nguồn gốc, sứ mệnh và mục đích. Tất cả những người ta gặp nơi thế gian, tất đều là vì tiền duyên. Chúng ta hãy nói về Bảo Ngọc, nguồn gốc của sinh mệnh này là một quá trình vô cùng dài. Từ khi khai thiên lập địa, từ khi Nữ Oa vá trời, lại trải qua những năm tháng lâu dài, từng là Thần anh thị giả ở tiên giới. Tới thời nhà Thanh, dưới ngòi bút của Tào Tuyết Cần, trở thành nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết như vậy, có thể thấy năm tháng dài đằng đẵng như thế nào. Và tới cuối cùng, Giả Bảo Ngọc trong tiểu thuyết, và câu chuyện hiện thực về sự thịnh suy của hai phủ Vinh, Ninh của Giả Phủ trong thời kỳ Khang Hy đã kết thúc, mọi người đã giải thán. Còn hòn đá Thông linh Bảo Ngọc đã hoàn thành kiếp sống trong đời này của mình, về lại nơi tiên giới, vẫn nằm dưới chân đỉnh Thanh Ngạnh, núi Đại Hoang.

Thế gian là nơi hoàn trả lại nước mắt

Giả mẫu rất cưng chiều Bảo Ngọc. Bà có rất nhiều đứa cháu, nhưng vì đặc biệt cưng chiều Bảo Ngọc nên bà giữ cậu bên cạnh và sống cùng cậu.

Sau khi Đại Ngọc đến Vinh Quốc Phủ, Giả mẫu cũng để Đại Ngọc sống cùng bà trong căn phòng mà Bảo Ngọc thường ở. Về phần Bảo Ngọc, bà định chuyển cậu vào Noãn Các để sống cùng bà, điều này cho thấy bà yêu thương cậu tới đâu. Bảo Ngọc nhanh chóng từ chối lòng tốt của bà nội và nói: Thưa bà, để cháu ngủ cái giường ở bên ngoài buồng Bích Sa thì hơn, việc gì phải đến ngủ gần bà, làm bà không được yên tĩnh.

Trong thời gian này, Bảo Ngọc và Đại Ngọc sống cùng nhau cả ngày lẫn đêm, ăn ngủ cùng nhau, và thực sự là những người yêu nhau từ thuở nhỏ. Sách nói rằng hai người họ "ban ngày cùng nhau đi ngồi, ban đêm cùng nhau nghỉ ngơi, lời nói và suy nghĩ hòa hợp, không hề bất đồng quan điểm". Điều này có nghĩa là cặp anh em họ này ban ngày cùng nhau đi khắp mọi nơi, ban đêm thì chung chăn gối. Họ không thể tách rời nhau, cả ngày luôn như hình với bóng, nói chuyện hòa hợp, hiểu ý nhau, giao tiếp với nhau mà không có bất đồng quan điểm hay bất hòa nào.

Gia đình Đại Ngọc được giáo dục rất tốt. Bố mẹ Đại Ngọc chỉ coi cô là con gái nên hai vợ chồng nuôi dạy cô rất chu đáo và giáo dục cô rất tốt. Khi Đại Ngọc mới đến Giả phủ, cô rất chú ý trong mọi việc, quan sát lời nói và biểu cảm của mọi người, thận trọng trong lời nói và hành động, không bao giờ vượt quá giới hạn. Trong thời gian cô ở Giả phủ, nhà bình luận Chi Nghiễn Trai cũng nhận xét về cô: cô rất chu đáo trong mọi việc và không muốn xen vào chuyện của người khác.

Trong hồi thứ mười ba và mười bốn của tác phẩm, Tần Khả Khanh, con dâu của Giả Trân, chủ nhân của Ninh quốc phủ, bỏ mạng ở Thiên Hương lâu. Ninh quốc phủ đã tổ chức tang lễ lớn cho việc này. Vương Hy Phượng, vì sự gửi gắm nhờ vả nhiều lần của Giả Trân, đã từ Vinh quốc phủ đến Ninh quốc phủ để phụ trách tang lễ.

Trong hai chương này, chỉ giải thích đơn giản là cha của Lâm Đại Ngọc bị bệnh nặng khi đang đảm nhiệm chức vụ ở Dương Châu, nên chồng của Phượng Thư là Giả Liễn đã hộ tống cô em họ nhỏ này đến Dương Châu để thăm cha. Cha của nàng qua đời, Gia Liễn giúp lo liệu tang lễ, sau đó hộ tống Lâm Đại Ngọc trở về Gia phủ. Chúng ta nên lưu ý rằng cuốn sách giải thích ngay từ đầu rằng gia tộc Lâm là một gia tộc hầu tước danh giá. Tổ tiên bốn đời đều là hầu tước. Đây là một gia đình quý tộc phú quý trong nhiều thế hệ. Tuy nhiên, các thế hệ sau con cháu đều thưa thớt, ít ỏi.

Tới thời của Lâm Như Hải, có rất ít chú bác cùng gia tộc, và Lâm Đại Ngọc là con cháu thế hệ sau duy nhất. Lâm Như Hải là mệnh quan triều đình và qua đời tại Dương Châu. Vì vậy, không thể không có di sản sau khi ông qua đời, bao gồm di sản của nhiều thế hệ tổ tiên và tiền lương của chính ông khi làm quan. Việc những thứ này nên được Đại Ngọc kế thừa là hợp lý. Nhưng Đại Ngọc là một cô gái chốn khuê các, giờ sống với bà ngoại và các câu, trên còn có bọn họ nên không đến lượt cô hỏi về tài sản của mình. Tất nhiên, khối tài sản này do Giả phủ quản lý. Chúng ta sẽ nói về phần này sau.

Lâm Đại Ngọc, trở về Giả Phủ sau khi tổ chức tang gia, là một đứa trẻ mồ côi, mất cả cha và mẹ. Lúc này, nàng và Bảo Ngọc đều đã trưởng thành, vì vậy họ sống riêng.

Sau tang lễ ở phủ Ninh Quốc phủ, Vinh Quốc phủ và Vương Hi Phong bắt đầu chuẩn bị cho việc nghênh đón quý phi nương nương-  Chị gái của Bảo Ngọc là Giả Nguyên Xuân, là nguyên phi trong hoàng cung, về thăm cha mẹ. Giả phủ cho xây dựng một khu vườn, đặt tên là Tình thân biệt thự, để chào đón nguyên phi. Khi còn là con gái ở nhà, nàng luôn mang Bảo Ngọc theo. Hai chị em có mối quan hệ rất bền chặt thân thiết.

Để làm nàng vui lòng, các tấm bia trong vườn đều được Bảo Ngọc đặt tên và khắc tên. Ngày nguyên phi trở về thăm thân vô cùng náo nhiệt. Sau đó, nguyên phi sợ rằng từ nay trở đi khu vườn sẽ bị bỏ hoang, nên đã ra lệnh cho các chị em trong gia đình mỗi người phân chia sống ở một nơi khác nau. Vì đặc biệt cưng chiều Bảo Ngọc nên nàng cũng phá lệ và để chàng sống trong Đại quan viên. Vì Bảo Ngọc thường ngày thích mặc đồ đỏ nên được gọi là Di Hồng Công Tử. Nơi ban đầu Bảo Ngọc ở trong Đại Quan viên có tên là Giáng Vân Hiên. Giáng ở đây cũng là cỏ Giáng Châu, sau này được gọi là Di Hồng Viện.

Đại Ngọc thích sự yên tĩnh, sống ở nơi có rất nhiều trúc là Tiêu Tương Quán. Trên thực tế, đây cũng là ẩn dụ, tức là cỏ Giáng Châu vẫn ở nơi thanh tịnh đầy cỏ hoa nơi thế gian, cũng hàm ý rằng nơi này chính là nơi nàng trả lại nước mắt. Tiểu Tương Trúc, còn gọi là trúc đốm, Trúc đốm đề cập đến một số loại trúc có thân với các vết lốm đốm sẫm màu, còn được gọi là trúc giọt nước mắt. Truyền thuyết kể rằng khi vua Thuấn đột ngột qua đời trong chuyến đi tới Thương Ngô, các giọt nước mắt của hai phi tần của ông (các nữ thần sông Tương là Nga Hoàng và Nữ Anh rơi xuống bụi trúc xung quanh đó và nhuộm màu vĩnh viễn lên thân trúc. Điều này cũng hàm chứa ý nghĩa trả lại nước mắt. Trúc quanh năm xanh tươi, nước mắt của Đại Ngọc sẽ không bao giờ ngừng rơi. Phi tần Tiêu tương chết vì tình, thực ra báo trước kết cục của Đại Ngọc - Tiêu tương quán là nơi cuối cùng của Đại Ngọc, nàng rơi lệ tới tử vong, trả hết món nợ nước cam lồ khi xưa. Khi nàng chết, còn là một cô gái nơi chốn khuê các, chưa lấy chồng, cũng chính là "Chất bản khiết lai hoàn khiết khứ" nghĩa là: Bản tính vốn là trong sạch, nay lại được ra đi trong sạch, trong bài thơ "'chôn hoa" của nàng.

Chúng ta nên chú ý đến nội hàm thâm sâu phong phú của triết tự Trung Quốc. (绛珠草) - Giáng châu thảo có màu gì? Màu đỏ. Còn Châu thì sao? Đó là giọt nước mắt. Đây là ẩn dụ cho số phận của Lâm Đại Ngọc phải trả món nợ nước mắt của mình trên thế gian.

Còn từ "Xích - 赤" trong "Cung Xích Hà -赤瑕宫" cũng có nghĩa là màu đỏ. Tên gọi nơi ở của Bảo Ngọc trong Đại Quan Viên là Di Hồng Viện. Khi làm thơ, Chàng luôn ghi danh là Di Hồng Công Tử. Khi Tào Tuyết Cần viết cuốn sách này, vì nghèo khó và không có vườn hay sân, ông đặt tên cho nơi ở của mình là Điếu Hồng Hiên, một đình nhỏ để tưởng nhớ Di Hồng Viện.

Tên của tác phẩm là "Thạch Đầu Ký", còn được gọi là "Hồng Lâu Mộng". Nói cách khác, hàm ý của những danh từ này tương hỗ lẫn nhau từ đầu đến cuối. Đây là ẩn dụ về nguồn gốc của sự lâu dài của sinh mệnh. Và Hồng Lâu Mộng, không chỉ là Di Hồng Viện hay Tiêu Tương Quán ở thế gian, mà còn là Giáng Châu Thảo và Xích Hà Cung nơi tiên giới. Chúng nằm trong cùng một giấc mộng. 

Theo Soundofhope
Bình Nhi

Đọc tiếp