Tiên tri "Thôi Bi Đồ" - năm 2025 kinh tâm động phách

Tiên tri "Thôi Bi Đồ" - năm 2025 kinh tâm động phách
Thôi Bi Đồ miêu tả sự sắp xếp của thiên giới, và quan trọng nhất là mô tả chi tiết toàn bộ sự việc Đức Phật Di Lặc tương lai hạ thế. (Ảnh minh hoạ)

Cứu Kiếp Bia Văn, Thiêu Bính Ca, Thôi Bi Đồ đồng thời ứng nghiệm? Tiên tri Lưu Bá Ôn chỉ ra cách vượt qua đại nạn (Phần 3)

Năm 1915 Ất Mão, mặt đất ở tỉnh Sơn Tây đột nhiên nứt ra, hiện xuất bia văn của Lưu Bá Ôn, gồm hai phần, theo thể thơ ngũ ngôn, tổng cộng 148 câu. Ngoài ra còn có vật cống phẩm và «Thôi Bi Đồ» của Lưu Bá Ôn từ 550 năm trước đây, tổng cộng 3 quyển. Tác phẩm của Lưu Bá Ôn không được biết đến nhiều bằng "Thôi Bối Đồ" của Lý Thuần Phong. Có thể là do trọng điểm của lời tiên tri này không phải là lịch sử, mà là ngày nay. 

"Thôi Bi Đồ" và những dự ngôn khác của Lưu Bá Ôn là liền mạch tương hỗ lẫn nhau. Nó không chỉ dự đoán nội dung cụ thể về thời mạt kiếp của vũ trụ mà còn tiết lộ nhiều thiên cơ vạn cổ chưa từng có. Nó miêu tả sự sắp xếp của thiên giới, và quan trọng nhất là mô tả chi tiết toàn bộ sự việc Đức Phật Di Lặc tương lai hạ thế, sử dụng Ba chữ Chân Kinh và 36 Phật bảo làm Pháp để cứu rỗi nhân loại, và toàn bộ quá trình tiến tới một thế giới mới.

Thôi Bi Đồ, quyển 1 

Thôi Bi Đồ quyển 1 mở đầu bằng một cảnh tượng giống với thế giới thực. Kể rằng vào ngày nọ, có tiếng sấm rung trời lở đất ở phủ Thương Thiên Nam Kinh, sau đó xuất hiện một tấm bia đá. Trên đó khắc ba tập kinh: "Thôi Bi Đồ", "Định Kiếp" và "Hiền Bảo". Từ đó, một cuộn tranh toàn cảnh được mở ra, từ sự triển hiện của dự ngôn đến tận cùng của thời mạt kiếp, từ thế giới con người đến thiên thượng. Những nội dung mà dự ngôn cảnh báo đang dần ứng nghiệm, nhân loại nên nhanh chóng thay đổi và làm việc thiện, nếu không sẽ khó an toàn qua kiếp nạn.

Ngay sau đó, một hiện tượng kỳ lạ tái hiện trên núi Phổ Đà ở Biển Đông. Sau một tiếng sét, một tấm bia đá rơi xuống, bên trong chứa đầy kinh sách. Có ba người hiểu được ý nghĩa sâu xa trong đó nên lập tức học thuộc lòng, tu luyện theo kinh văn và truyền bá rộng rãi cho mọi người. Ngày càng có nhiều người học được hưởng lợi từ đó. Có thể thấy rằng bia văn này không phải là dự ngôn. Kết hợp với đoạn văn phía dưới, chính là đề cập đến Phật Pháp chân kinh do Đức Phật Di Lặc truyền ban. Tuy nhiên, khi đó Mã tri huyện biết được điều này, ông ta không những không tin mà còn tìm đủ mọi cách nói xấu, phỉ báng, chửi rủa, sát hại những người tu luyện. 

Mọi người có thể sẽ hỏi, Mã tri phủ đó rốt cuộc là ai? Xem xét qua các mô trả trong đó, có thể lý giải đó chính là chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc, cũng nghĩa là ĐCSTQ. Kết quả là mấy ngày sau, tất cả những người trong nhà vị Mã tri phủ này tử vong. Kết cục này mặc dù khiến mọi người cảm thấy vừa lòng, tuy nhiên suy nghĩ kỹ ẩn ý phía sau cũng vô cùng đáng sợ. ĐCSTQ nắm chính quyền vài thập kỷ qua đã ảnh hưởng sâu sắc tới cuộc sống của mọi người dân nước này. Ngay từ khi còn nhỏ, đã mang trên vai chiếc khăn quàng đội viên nhuốm máu đào, phát lời thệ nguyện trung thành suốt đời với đảng; lớn lên gia nhập đoàn thanh niên, đảng cộng sản, cũng đồng nghĩa gắn cuộc đời mình suốt đời vào cỗ xe của nó. Vậy rốt cuộc phải làm thế nào? 

Di Lặc Phật ở lưng trời nói rằng: Thiện tai, thiện tai, mạt niên thời nay, thiên hạ nhân dân mười phần phải thu chín phần, đều là những người có tội không tôn bề trên, bất kính phụ mẫu, ỷ mạnh hiếp yếu, hành ác khinh nghèo, tranh đấu nhỏ nhen, tâm sói tham tài, ức hiếp trung lương, lừa người lấy tiền, giết mổ trâu cày. Di Lặc Phật tại cõi phàm và Thần tướng Hỏa La hạ giới tra xét dân gian.

Dù đã từng là người xấu hay người tốt, chỉ cần có thể đọc được chân kinh đều được coi như quay đầu là bờ, cả gia đình có thể tránh khỏi tai họa. Những người ngoan cố không thay đổi, tiếp tục làm ác cuối cùng sẽ khó tránh khỏi việc bị trừng phạt. Tháng ba tháng năm dịch bệnh xuất hiện khắp nơi, tháng tám tháng chín kẻ ác đều sẽ bị chết hết, chỉ có hành thiện, quân tử tài đức mới có thể bảo hộ gia đình bình an. Phật Di Lặc còn nói rõ, tới thời kỳ mạt kiếp nhân loại sẽ chịu đủ các loại lo âu và khổ nạn về dịch bệnh, hạn hán, lũ lụt, vợ con ly tán, xác chết khắp nơi..., điều này cũng giống như đúc với mười nỗi sầu trên Cứu Kiếp Bia Văn của Lưu Bá Ôn. Chỉ có người sớm tỉnh ngộ, hiểu rõ mới có thể bình an vô sự,  người hồ đồ khó có thể hưởng thái bình, trên đường thi thể người chết vô số, một vạn người có chín nghìn người chết, nếu không tin những điều trong kinh văn nói, thì kiếp nạn đã ngay trước mắt. 

Thần Phật đều bất lực, chỉ có Phật Di Lặc mới có thể cứu độ. Trong Thôi Bi Đồ nêu rõ, thế gian có kiếp nạn, nhưng thời kỳ trông coi thế gian của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã hết và ngài đành khoanh tay. Thấy hòa thượng trong chùa không còn chân tu, ma quỷ ở khắp mọi nơi, và cánh cổng vào Tây Phương Cực Lạc đã đóng lại, hàng trăm tôn giáo đã bị hủy diệt, danh xưng chỉ còn là danh nghĩa, và chúng sinh không có cách nào trở về thiên giới thật đáng buồn. Các vị thần và tiên nhân của tất cả các giáo phái trên thiên đàng cũng bất lực. Lúc này, chỉ có các vị thần phương Đông và phương Tây hợp lực mới có thể hỗ trợ Đức Phật Di Lặc hàng phục ma quỷ, hồng truyền chân kinh để cứu độ chúng sinh và giúp nhân loại quay trở về thiên quốc của mình.

Phía dưới nói tiếp, thật may Phật Di Lặc Phật pháp vô biên, có thể tái hiện cơ hội tới thế giới cực lạc. Ngài đã cử nhiều thiên thần tuần tra thiện ác tại nhân gian, những kẻ có tâm địa độc ác, bất trung và bất hiếu, bất kính với thánh thần đều là nghiệp chướng nặng nề phải chịu khó khăn đói kém, sấm sét, lũ lụt, hỏa hoạn, ôn dịch và các thảm họa khác. Các đệ tử của Đức Phật Di Lặc đều là những người có uy đức cao thâm, quang minh chính đại, thực hành ba chữ mà Đức Phật Di Lặc đã dạy. 

Thật không may, thế giới đang hỗn loạn, ít người tin và nhiều người phỉ báng, không phân biệt được thiện ác. Cuối cùng, vào tháng 3 của một năm nào đó, cuộc đại đào thải cái ác trên thế gian đã bắt đầu. Vào những năm của thời mạt kiếp, lòng người bàng hoàng, lo lắng. Mặc dù năm loại ngũ cốc vẫn có thể thu hoạch, nhưng vào tháng 3 và tháng 5, thần ôn dịch tới thế gian và mang theo một căn bệnh kỳ lạ gần như không cách gì cứu chữa. Vào tháng 5 và tháng 6, Sơn Đông gặp đại họa, Hồ Bắc, Hồ Nam bị lũ lụt, Tứ Xuyên hỗn loạn, Vân Nam và Quý Châu chịu nạn đói, khắp nơi đều bất ổn, người tử vong nhiều vô số kể. Nếu có thể sống sót qua những năm Dần, Mão, Thìn, Tỵ, từ năm 2022 đến năm 2025, thì chính là một vị thần sống. Sau đó, năm nay, 2025, là năm mà thần ôn dịch sẽ mang đến tai họa vào tháng 3 và tháng 5. Cần lưu ý ở đây rằng những năm và tháng trong dự ngôn đề cập tới là tháng âm lịch. 

Những người không tin và tụng Kinh Phật Di Lặc sẽ không có thuốc nào có thể cứu chữa, nôn ra máu mà chết. Những người biết tới có thể bảo toàn tính mạng, thành tâm học và thực hành sẽ được bình an vô sự, vui vẻ an nhiên tự tại, từ người thường thành thánh nhân. 

Có người hỏi, có cách nào để phá giải không? Trong Thôi Bi Đồ có nói, chỉ có ba chữ chân ngôn là có thể hoá giải. Nếu không tin hãy nhìn vào những năm Dần, Mão, Thìn, Tỵ. Một đoạn thời gian dài, mọi người đều biết ba chữ này, nhưng lại xem thường và bôi nhọ, nói xấu. Điều này hẳn ám chỉ đến các phương tiện truyền thông và truyền hình là phát ngôn viên của ĐCSTQ, đầy rẫy những lời vu khống, bịa đặt. Thần Phật khóc vì nhân loại thế gian, Phật Di Lặc vẫn đang gánh chịu, cố gắng trì hoãn kéo dài thời gian chỉ để đợi chờ chúng sinh tỉnh ngộ. Tuy nhiên, chúng sinh vẫn mãi mê mờ, vì vậy sau tháng Tám và tháng Chín, tức là tháng Mười Một âm lịch, đến, mọi thứ đều diễn ra theo kết cục đã an bài, thiện và ác được giải quyết, càn khôn đại định.

Sau khi đọc được các cảnh tượng trong tranh ở quyển 1, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu quyển 2: Sự sắp đặt của Thiên giới.

Quyển ​​2: "Định kiếp" - Sự sắp đặt của Thiên giới

Cách đây rất lâu, rất lâu rồi trên đỉnh trời nơi Ngọc Thanh cung tiên khí cuồn cuộn, Tam Thanh Ngọc Đế và các vị Thần, Phật, Bồ Tát cùng tập hợp đông đủ, Ngọc Đế hỏi tại sao dưới hạ giới oán khí ngút trời. Một vị Thiên Phật than rằng: “Thế gian đã đến thời mạt kiếp, phúc đức của các bậc thiên vương trên trời gần như cạn kiệt, chúng sinh dưới trần thì không thể trở về đạo.” Ngọc Đế lo lắng hỏi: “Ai có thể xuống trần chấn chỉnh càn khôn, lập lại trật tự trời đất?”

Thiên Phật nói: “Hiện tại có Ma Vương Yên cùng tam giáo Thánh Nhân tranh giành lẫn nhau, khiến cho càn khôn đảo lộn.” Ngọc Đế truy hỏi: “Rốt cuộc là những ai đang tranh giành gây nên hỗn loạn?”

Thiên Phật đáp: “Có ba vị Thánh Nhân: Đạo gia là Lão Tử, Nho gia là Khổng Tử. Còn Phật gia thì không phải là Thích Ca Mâu Ni Phật như thường thấy, mà chính là Di Lặc Phật.”

Thiên Phật đáp có ba vị thánh nhân, là Lão Tử của Đạo giáo, Khổng Tử của Nho giáo, còn Phật giáo thì sao? Điều khiến mọi người bất ngờ đó là, Thánh nhân thứ ba mà ông đề cập đến không phải là Thích Ca Mâu Ni mà là Phật Di Lặc. Ngọc Đế lại hỏi, vậy hiện nay ai có thể phụ trách giáo hoá con người thế gian? Thiên Phật đáp: “Thế giới đã tận, mạt kiếp đã đến, chúng sinh chịu khổ não, vạn ma quỷ đều cùng tham gia, hai đạo Nho và Thích giáo đều không thể hoá giải, tất phải đợi Thượng Thượng Chủ Thánh tới, cũng chính là Vương của vạn vương ở trên tầng cao hơn Thần Phật". 

Người đứng đầu vũ trụ đã tới, Ngài là Phật Di Lặc, ngài đã sớm tới thế gian, chỉ đợi Ngọc Đế thống lĩnh thần minh hành lễ cầu xin Chủ Thánh thay đổi càn khôn, sắp đặt lại thương khung, thiên địa. Chúng Thần Tiên đợi để cùng xuống trợ giúp. Vì vậy, Ngọc Đế nhanh chóng ra lệnh cho tất cả các vị thần trên thiên đàng xuống thế gian trước, đầu thai vào thế giới con người và giúp đỡ Di Lặc. Đó là cảnh tượng ngoạn mục của các vị vua xuống thế gian. 

Bởi vì thế giới đảo lộn và hỗn loạn, tất cả chúng sinh, bao gồm cả các vị thần và Phật trên trời, đều không biết được Pháp chân chính của Đức Thế Tôn. Phật Di Lặc thương xót bi ai nói: "Ta đi xuống dưới, thấy lòng người hiểm ác, trắng đen đảo lộn, không biết hối hận, người làm việc ác thì nhiều, làm việc thiện thì ít, chuyến đi này khó nạn trùng trùng”. Ngọc Đế nói: “Ta đã lệnh cho Phật tử, Đạo sĩ, Nho gia, thần tiên, và các vị thần trên trời xuống trần gian trước để trợ giúp Ngài thuyết pháp. Ngoài ra còn có hai vị Bồ Tát vĩ đại là Văn Thù Sư Lợi và Phổ Hiền sẽ cùng đi theo”. 

"Thế giới đã tận, mạt kiếp đã đến, chúng sinh chịu khổ não, vạn ma xuất động, không Tam Dương có thể điều hành, tất phải đợi Thượng Thượng Chủ Thánh tới... Ta nói rằng Thượng Thượng Chủ Thánh chính là Di Lặc Phật sẽ sớm đến, ...” (Quyển 2)

Giải: Trong nguyên văn, đây là câu thoại mà "Thiên Phật" hồi đáp "Tam Thanh Ngọc Đế", đại ý là: thế giới đã đến tận cùng tối hậu rồi, thời mạt kiếp đã đến rồi, các chủng tà ác ào ào xuất hiện (như loạn tính, giải phóng tình dục, hút hít ma túy, xã hội đen, v.v.); với đạo đức bại hoại của nhân loại ngày nay thì các Thánh nhân ban sơ không còn cứu nổi nữa, tất phải đợi "Thượng Thượng Chủ Thánh" - tức Sáng Thế Chủ tới.

"Phật Di Lặc từ Thiên nói rằng: 'Sau khi ta tự mình truyền tam tự tam Pháp, tất vạn pháp quy nhất, Pháp chính càn khôn,... lễ rồi thấu hư mà đi. Phàm thân Mộc Tử vi tính."

Giải: Đoạn trên có thể giải thích như sau:

“Lúc Phật Di Lặc từ biệt sinh mệnh cao tầng trên thiên thượng nói rằng: ‘Sau khi ta tới nhân gian truyền ‘tam tự chân kinh’, nhất định sẽ quy nhất tất cả các pháp ở không gian tầng thấp nhất, dùng bộ Đại Pháp vũ trụ tối cao này để quy chính Thiên Địa,... Thi lễ xong xuyên qua Thần giới, hướng về nhân gian mà đi. Nhục thân của Phật Di Lặc tại nhân gian họ là Lý.”

("Mộc Tử" (木子) là cách viết của chữ "Lý" (李); quá trình từ không gian của Thần hướng về không gian con người mà chuyển sinh gọi là "thấu hư".)

"Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đáo trung thiên, nhận Mộc Tử vi tính."

Giải: Bản đồ Trung Quốc có dạng con gà vàng (Kim Kê), "mục" là con mắt, từ địa đồ Trung Quốc mà quan sát thì thấy "Kim Kê mục" chính là vị trí tỉnh Cát Lâm. Ở đây nói Phật Di Lặc xuất sinh tại Cát Lâm, vào năm Thỏ, tức nhục thân của Phật Di Lặc tại nhân gian thuộc Thỏ, họ ở nhân gian là "Lý" (Mộc Tử).

Trở về hiện thực xã hội ngày nay, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, Đại sư Lý Hồng Chí sinh ra tại thành phố Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm, thuộc Thỏ (sinh năm Thỏ). Năm 1992, Ông Lý Hồng Chí bắt đầu truyền công pháp Phật gia —Pháp Luân Công, hay còn gọi là Pháp Luân Đại Pháp— giảng "Chân, Thiện, Nhẫn", tức "tam tự chân kinh". Chỉ trong mấy năm ngắn ngủi mà số người học người luyện lên tới hàng chục triệu người.

Ghi chú: Ở đây chúng ta đặc biệt chỉ rõ rằng Đại sư Lý Hồng Chí khi giảng Pháp không hề nói tự bản thân là Phật Di Lặc hoặc vị Phật nào đó chuyển thế, do vậy không thể coi lời Phật Di Lặc trong dự ngôn là lời Đại sư Lý Hồng Chí. Tuy nhiên chúng ta tôn trọng nguyên văn dự ngôn, khi tiếp tục giải thích thì vẫn bảo lưu cách xưng hô được dùng trong nguyên văn.

"Khi ấy Di Lặc Phật nói: “Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử, tín nữ tử, ta truyền tam tự tam Pháp, chính là Phật tam bảo, còn có trường sinh lưỡng ngọc, lại có ba mươi sáu Phật bảo, một bước đến nơi, không cầu khẩu hư, chỉ cầu chân tâm thực tiễn. Ắt thấy được huyền diệu, mãi được trường sinh, tất đắc chính quả, chuyển phàm thành Thánh, mãi thoát khổ hải. Không tin lời Pháp của ta, gặp thập chủng ác nghiệp, sớm bệnh chiều chết. Nghe tam bảo tất sinh kẻ phỉ báng, nhân thân bất đắc, vạn kiếp khó phục nhân đạo.”

Giải:  “Phật tam bảo” chính là “tam tự chân kinh” (“Chân, Thiện, Nhẫn”) như đã nói ở trên. "Lưỡng ngọc" là chỉ người tu luyện Pháp Luân Công, mỗi ngày luyện tập 5 bộ công pháp động công và tĩnh công, có thể khiến thân thể dần dần được vật chất cao năng lượng thay thế, cuối cùng trở nên thuần tịnh tựa như ngọc —tới đây người luyện công đã không còn bệnh nữa, do đó cũng không cần dùng thuốc, đạt được mục đích kéo dài thọ mệnh, trường sinh bất lão.

"Lúc ấy Nam Hạp Phù Đề trung thiên Trung Quốc mới có thiện nam tín nữ lễ bái tam tự Phật bảo, chân tâm kính ngưỡng tín tâm bất thoái, thành tâm thực tiễn giả chuyển phàm thành Thánh, chúng sinh bất tín." (Quyển 2)

Giải: Đến thời điểm này, tại Trung Quốc có thiện nam tín nữ lễ bái 'tam tự chân kinh' ("Chân, Thiện, Nhẫn"), thực tâm kính ngưỡng, tín tâm không giảm, người thành tâm tu luyện một cách thực tiễn có thể từ phàm nhân (người thường) tu thành Thánh nhân (tức Phật, Đạo, Thần,... sinh mệnh cao cấp); người thường ở thế gian do thụ nhận ảnh hưởng của thuyết vô thần trong hàng thập niên nên không tin.

"Đến năm ấy tất có can qua tứ khởi, đau xót bi thương, phản loạn thế giới; tu Thiện lương dân, chớ có phiền muộn." (Quyển 2)

Giải: Phật Di Lặc nói: Vào mấy năm này (bức hại Pháp Luân Công), thế giới nhất định sẽ có chiến tranh, tấn công khủng bố, ôn dịch, động đất khắp nơi, các chủng sự tình bất hảo sẽ đua nhau xuất hiện. Điều này ắt có ảnh hưởng đến sự ổn định của thế giới; người tốt tu hành Thiện nghìn vạn lần không được sợ hãi, những điều này đối với các vị là không liên quan.

Tại đây, «Thôi Bi Đồ» đã đề cập đến bộ phận thế nhân không tin Đại Pháp, lại bị kẻ ác đương quyền lừa dối, hủy báng Phật Pháp, bức hại đệ tử của Phật Di Lặc—tức đệ tử Đại Pháp, từ đó đi vào con đường tuyệt lộ của sinh mệnh.

Ghi chú: Ở đây chúng ta đặc biệt chỉ rõ rằng Đại sư Lý Hồng Chí khi giảng Pháp không hề nói tự bản thân là Phật Di Lặc hoặc vị Phật nào đó chuyển thế, do vậy không thể coi lời Phật Di Lặc trong dự ngôn là lời Đại sư Lý Hồng Chí. Tuy nhiên chúng ta tôn trọng nguyên văn dự ngôn, khi tiếp tục giải thích thì vẫn bảo lưu cách xưng hô được dùng trong nguyên văn.

Dự ngôn không ngừng cảnh báo:

"Tự chúng sinh không hành thiện, hủy báng tam bảo, thường sinh tâm tật đố, đến năm ấy tất có nỗi khổ hạ địa ngục, cầu không được nơi an lạc. ..." (Quyển 2)

Giải: Rất nhiều người không làm việc tốt, mà lại chửi rủa, phỉ báng Chân-Thiện-Nhẫn, tức “tam tự chân kinh”, thường nảy sinh tâm ganh tỵ không chịu phục, đến mấy năm đào thải tối hậu con người (tức Pháp Chính Nhân Gian tới), khẳng định sẽ gặp phải ác báo, sinh mệnh tìm không được nơi chốn an lạc.

"Nghe tam bảo tất sinh kẻ phỉ báng, nhân thân bất đắc, vạn kiếp khó phục nhân đạo" (Quyển 2)

Giải: Với những người nghe tam tự Phật Pháp "Chân-Thiện-Nhẫn" mà lại ác ý phỉ báng, thì trong luân hồi không thể đắc được thân người nữa, vĩnh viễn mất đi cơ hội làm người.

Quyển 2 là nói về sự sắp xếp của các thiên giới. Ngọc Hoàng định ra kiếp số, nhưng vương của vũ trụ chỉ có một tiêu chuẩn để cứu chúng sinh. Chỉ cần bạn biết kinh sách chân chính của Đại Pháp, liền có thể quay đầu là bờ. Vậy Phật Di Lặc sẽ mang những báu vật gì đến thế gian để chính lại vũ trụ? Chúng ta hãy cùng xem quyển ba "Hiền Bảo". Trong đó còn nói đến hồi kết của Trung Quốc đại lục và Đài Loan, cũng như sự ra đời của thế giới mới.

Quyển 3: Hiền Bảo 

Quyển 3 đề cập tới Đức Phật Di Lặc vân du mười phương và hàng trăm quốc gia, đi qua mười hai cõi, du hành khắp bốn biển năm châu cùng với ba mươi sáu Phật bảo để hồng truyền Đại Pháp và cứu độ chúng sinh. Ngài đã sớm thu phục được ba đầu đảng tội ác tày trời, để tránh nhiều sinh linh hơn phải chịu lầm than khổ cực. Bởi vì đạo đức thế gian đã hỗn loạn, thập ác hoành hành, trăm tôn giáo không có hiệu quả, lòng người trầm luân, thiện và ác đảo ngược, Đức Phật Di Lặc thở dài. Thế gian hiện tại ma quỷ lộng quyền, càn khôn bất chính, nếu không tu theo Pháp của Phật Di Lặc không ai có thể trở về thiên đường.

Trong quyển 3 “Thôi Bi Đồ” còn minh xác đề cập đến tình huống Phật Di Lặc hồng truyền Đại Pháp tại các nơi trên thế giới và Pháp Chính Nhân Gian.

"Lúc ấy Di Lặc Phật, tại thập phương bách quốc,... đi khắp tứ hải ngũ châu, cứu độ chúng sinh. Toàn bằng Phật bảo thu thập người tàn duyên."

Giải: Lúc này Phật Di Lặc tại các nơi trên thế giới,... đi lại giữa bốn biển năm châu, cứu độ nhân dân các quốc gia này. Toàn bằng tam tự Phật Pháp, thu thập những người còn có duyên phận ở các nước.

Ghi chú: Từ tháng 5/1992 đến cuối năm 1994, Pháp Luân Đại Pháp được truyền xuất. Tại Trung Quốc, Đại sư Lý Hồng Chí đáp ứng lời mời của các ban ngành chính phủ và Hiệp hội Khí công các nơi, không ngừng bôn ba khắp Đông Tây Nam Bắc, truyền Pháp truyền công, chỉ trong thời gian hơn 2 năm ngắn ngủi đã tổ chức 54 lớp học Pháp Luân Công trên cả nước. Kể từ năm 1995, Lý Đại sư bắt đầu lịch trình truyền Pháp tại các nước hải ngoại; tính tới nay, Pháp Luân Đại Pháp đã hồng truyền tại hơn 114 quốc gia và khu vực. Đây chính là điều dự ngôn nói là "đi khắp tứ hải ngũ châu, cứu độ chúng sinh."

"Khi ấy Di Lặc Phật, Pháp chính càn khôn, lực trảm quần ma, trừ ác đến trung thiên."

Giải: Phật Di Lặc dùng tam tự chân Pháp để quy chính Trời Đất vũ trụ, triệt để tiêu hủy hết thảy tà ác lạn quỷ, trừ ác tiến nhập tới Trung Quốc, trừ sạch tất cả những tà ác cuối cùng.

("Quần ma" chỉ những sinh mệnh tà ác phỉ báng tam tự chân kinh, bức hại đệ tử Phật Di Lặc và ngăn cản bách tính liễu giải được chân tướng Đại Pháp; "trung thiên" chỉ Trung Quốc.)

"Tức thì Pháp tử, kim cương bất động, kiên thủ Phật Pháp, chỉ đợi Kim Kê khiếu, trời sáng thiên môn khai,... Kim Kê tỉnh lại gáy là trời hửng sáng, toàn bộ Trung Hoa Đại Địa Kim Kê đứng thẳng, tứ hương quy về Thần Châu Lục xuất Chân Thần."

Giải: Ngay lập tức đệ tử của Phật Di Lặc, kim cương bất động duy hộ Phật Pháp "Chân-Thiện-Nhẫn", không ngừng giảng rõ chân tướng cho thế nhân trong mê, cũng là cứu độ chúng sinh, chỉ đợi gà vàng Trung Hoa Đại Địa gáy sớm, khi ấy bình minh xua tan tối tăm, nghênh đón thời khắc Pháp Chính Nhân Gian; đệ tử Đại Pháp các nơi tụ hội, Đại Lục Thần Châu xuất hiện những sinh mệnh cao cấp tu luyện viên mãn—trở thành Thần.

Trong «Thôi Bi Đồ» cũng dự ngôn người Trung Quốc không tin, mà phỉ báng Đại Pháp, dẫn tới ôn dịch không ngừng, cuối cùng chịu khí hậu kỳ dị bất thường.

"Không đến tháng Tám năm ấy, ôn thần giáng xuống, người trên mặt đất mười phần chết chín, kẻ ác thập đạo không còn sót ai. Nhưng chúng sinh lại càng bất tín."

Giải: Không đến tháng Tám một năm nào đó, lại có ôn dịch hoành hành, người trên mặt đất mười phần chết chín, những người xấu các ngành các nghề đều không còn sót lại. Thế nhưng người dân lại càng không tin.

"Thập phương bách quốc Pháp Luân huy, khắp trời mừng vui, thời hạn mãn. Pháp tử quy thập phương thiên quốc, người quay đầu làm người trên đất, người tới bờ, cùng lên chùa mười vạn tám ngàn, khi ấy Di Lặc Phật ở giữa cười vui vẻ."

Giải: Toàn thế giới đều nhìn thấy ánh quang huy của Pháp Luân, khắp trời trên dưới cùng đón mừng. Đệ tử tu luyện viên mãn của Phật Di Lặc, quay trở về thế giới của từng người; người biết chân tướng bức hại đã quay đầu hối cải ("người quay đầu"), sau khi kiếp nạn qua đi trở thành nhân loại mới trên Địa cầu tương lai, có phúc phận lớn tương đương; người biết chân tướng bức hại, lại từng bảo hộ đệ tử Phật Di Lặc ("người tới bờ"), sẽ có cơ hội tu luyện chân Pháp, cũng trở thành sinh mệnh cao cấp. Khi ấy Phật Chủ Di Lặc nhìn chúng sinh của vũ trụ mới sau khi Pháp Chính Càn Khôn, sinh cơ bừng bừng, vui vẻ mỉm cười.

"Như chúng nhân không tin lời ta, rơi vào cửa tử, thây chất như núi, vạn kiếp khó phục nhân đạo'. Nhưng chúng sinh bất tín." (Quyển 3)

Giải: Nếu như chúng sinh không tin lời Phật Di Lặc, thì cuối cùng rơi vào đường cùng, xác người chất như núi, trong luân hồi vĩnh viễn khó lại có được cơ hội làm người. Vậy mà bách tính vẫn không tin lời Phật Di Lặc.

"Có người bất tín, không tụng kinh Phật Di Lặc, không thuốc trị được, thổ huyết mà chết. Biết được kinh này bảo mệnh, người thực tiễn chân tâm tụng đọc, theo Phật gia an nhiên mừng rỡ vô cùng, chuyển phàm thành Thánh, người không tin không ai còn sống. Thân Đại nhân hỏi có thể thay đổi chăng? Thiên Sư đáp rằng: Duy tam tự có thể giải..."

Giải: Đối diện trường đại kiếp nạn này, những người không tin Đại Pháp, thì sẽ "không thuốc trị được, thổ huyết mà chết". Những người chân chính tu luyện Đại Pháp "Chân-Thiện-Nhẫn", thì không chỉ bình an vô sự, mà còn từ phàm nhân chuyển thành Thánh nhân; còn người phản đối thì không ai sống sót. Thân Đại nhân hỏi: Liệu có biện pháp nào thay đổi tình huống này không? Thiên Sư đáp lại rằng: Chỉ có ba chữ (tức "Chân-Thiện-Nhẫn") mới có thể giải cứu...

Trên đây là ba lược giải về Thôi Bi Đồ của Lưu Bá Ôn. Có thể nói bia văn đã tiết lộ thiên cơ từ vạn cổ, từ đó dự ngôn về thế giới của chúng ta ngày nay. Thông qua miêu tả trong ba quyển của Thôi Bi Đồ, không khỏi khiến mọi người nhớ đến ông Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, sinh ra ở Cát Lâm, tuổi Thỏ, bắt đầu truyền bá môn tu luyện Phật gia Pháp Luân Công vào năm 1992. Các nguyên lý cốt lõi của Pháp Luân Đại Pháp là ba chữ "Chân, Thiện, Nhẫn", và đây là một môn tu luyện song tu thân tâm (hai viên ngọc trường thọ). Ngoài việc tu luyện tâm tính, còn có năm bài công pháp với tổng cộng 36 động tác, có thể cải biến bản thể thành vật chất năng lượng cao. 

Mặc dù trong các bài giảng của mình, Sư Phụ Lý Hồng Chí không bao giờ nói rằng mình là Phật Di Lặc hay bất kỳ vị thần và Phật nào khác chuyển sinh, nhưng nhiều đặc điểm của Phật Di Lặc được đề cập trong dự ngôn đều trùng hợp với miêu tả Sư Phụ Lý. Hơn nữa, những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp là bị ĐCSTQ đàn áp nghiêm trọng nhất trong 25 năm qua, dù vậy họ vẫn kiên trì và tận tụy giảng chân tướng cho mọi người trên thế giới. Liệu tất cả chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Hy vọng việc giải đọc giản lược của chúng tôi có thể truyền cảm hứng cho mọi người tránh khỏi bệnh dịch và sống mỗi ngày đều bình an vui vẻ.

Theo Sound of Hope
Bình Nhi biên dịch

Đọc tiếp