Triết lý Thiên Địa Nhân trong trà đạo (Phần 2)

Triết lý Thiên Địa Nhân trong trà đạo (Phần 2)
Người xưa nói: “Một năm bắt đầu từ mùa xuân”. Cây trà vào mùa xuân tỉ lệ nảy mầm cao nhất, trà làm ra cũng có chất lượng tốt nhất. (Ảnh: Public Domain)

Tiếp theo Phần 1

Xuân trà viên dung, thu trà trị bệnh

“Xuân trà viên dung, thu trà trị bệnh”. Tiết khí, thời tiết, thời điểm hái trà… đều là những yếu tố then chốt trong chế biến, và tất cả đều thuộc phạm vi của “Thiên”. Có thể nói, những gì Trời – Thần ban cho con người trong việc uống trà đều gắn bó chặt chẽ, vô cùng mật thiết.

Người xưa nói: “Một năm bắt đầu từ mùa xuân”. Cây trà hoang dã, vào mùa xuân tỉ lệ nảy mầm cao nhất, trà làm ra cũng có chất lượng tốt nhất. Bất luận là hương vị, mùi thơm hay thành phần bên trong đều đạt đến trạng thái đỉnh cao. Xét theo âm dương ngũ hành, “xuân trà” (trà hái vào mùa xuân) đối với sức khỏe con người là toàn diện nhất, hàm lượng dinh dưỡng phong phú nhất; còn “thu trà” (trà hái vào mùa thu) thì là mùa có dược lực mạnh nhất trong năm. Thu thuộc hành Kim, mang ý nghĩa “sát phạt – chuyển biến”, nếu được những chuyên gia về trà chế biến, thì tác dụng dược lý của những loại trà hái vào mùa thu có công năng bảo dưỡng đặc biệt cho bệnh nhân tiểu đường, thận. Nói khái quát, trà được hái vào mùa xuân có đủ mọi thành phần dinh dưỡng ở tỷ lệ nhất định, nhưng trà hái vào mùa thu lại nổi trội hơn về các thành phần liên quan đến thận.

Trà ứng với tiết khí, gắn chặt quy luật thiên – địa 

Trà nảy mầm, được hái, được chế tác đều ứng theo mùa, hòa hợp với quy luật trời đất. Có những chuyên gia về trà là được chân truyền, thậm chí còn tính toán chính xác đến ngày giờ trong tháng tư để hái búp, mới có thể làm ra loại Ô Long thượng phẩm. Tất nhiên, điều kiện cuối cùng vẫn phải có chính là trời phải đẹp: không mưa, ít nhất phải có năm ngày nắng liên tục. Nếu thêm vào giống trà ưu tú, vườn trà hữu cơ, người chế biến trà và thợ sao trà hàng đầu, thì “Thiên – Địa – Nhân tam tài” hội tụ đủ điều kiện, mới có thể tạo nên loại Ô Long xứng tầm được gọi là vua của các loại trà.

Sáu yếu tố quyết định một chén trà: Thủy, Hỏa, Khí, Tế, Nhân, Trà 

Ảnh: Public Domain.

Thủy水

Trong văn hóa trà, nước được coi là “mẹ của trà”, vô cùng trọng yếu. Nói về nước, thì nước máy hiện đại còn kém hơn cả nước giếng mà Lục Vũ trong “Trà kinh” đời Đường từng coi là hạ phẩm. Nước máy qua tẩy trắng, thân thể của nước bị tổn thương, cả tâm thái và thân thể không còn khỏe mạnh. Dù nước máy được lọc sẽ tốt hơn nhiều, nhưng vẫn không thể sánh với suối tự nhiên hoặc sương móc thượng phẩm.

Nền tảng của việc uống trà hay trà đạo chính là chủ nghĩa tự nhiên, tùy kỳ thuận theo tự nhiên. Nước là mẹ của trà, tức là nó đóng vai trò vô cùng quan trọng trong một buổi thưởng thức trà đạo. Việc lấy nước nguồn từ suối trong núi, hay từ thảm thực vật, thậm chí cả thời điểm lấy nước đều có yêu cầu vô cùng khác biệt và cầu kỳ. Chỉ khi dùng nguồn nước suối hay sương vốn thuần túy thuộc về thiên nhiên, bẩm sinh đã là ưu tiên tốt nhất để pha trà, chỉ khi đó thì trà đạo mới thực sự bắt đầu.

Ngày nay nấu nước thì dễ, nhưng người xưa chờ nước sôi lại khó. Trong các lớp dạy về nghệ thuật uống trà, những yếu tố như nhiệt độ nước, lượng trà, thời gian ngâm đều là việc then chốt. Tiếp đó mới dạy cách sử dụng các loại khí cụ khác nhau: ấm đun nước, ấm pha, chén uống… thì nước trà thu được cũng muôn hình vạn trạng. Đây chính là mối quan hệ chặt chẽ giữa “Khí” (器) (dụng cụ) và sự phối hợp tuần tự “Tế” (济) trên trà tịch (茶席). Còn như dùng nguồn lửa gì, nấu nước ra sao, để nước – lửa hòa hợp, phân biệt độ già non của nước sôi – thì lại là khoảng trống của trà hiện đại, vì… đun sôi nước bây giờ quá dễ!

Các loại bình nước sôi chất liệu khác nhau, dùng các loại than lửa khác nhau, lại có thể nấu ra những chất nước với sắc thái khác nhau.

Hỏa 火

Vì sao việc chờ nước sôi lại khó? Vì sao con người vẫn phải ngồi bên bếp lửa và ấm sôi? Bởi trà là sự việc của tâm linh. Muốn đạt tới cảnh giới cao của “dĩ tâm diễn trà” (以心衍茶) – dùng tâm mà thưởng trà – thì từ thân tâm, trong ngoài, vật chất đến tinh thần đều cần được thanh lọc, điều hòa.

Trên chỗ ngồi uống trà, “than nhiệt có thể giữ ở nhiệt độ trong khoảng 90℃–96℃, giúp giải phóng toàn diện, sâu sắc các thành phần hữu hiệu trong lá trà. Đồng thời, nó còn hàm chứa ý niệm hiền lành, từ bi của người pha. Nước trong ấm cũng truyền đạt khí chất, cá tính và thần thái riêng của nó, và chỉ khi ấy mới có thể thoáng chốc đạt đến cảnh giới “Thiên – Nhân hợp nhất”.

Khí 器

Người xưa coi cả bộ dụng cụ đun nước là nhân vật chính trong trà đạo; còn ấm trà hoặc chén trà chỉ là vai phụ. Ngày nay, đa số lại coi ấm trà mới là nhân vật chính.

Trong một buổi thưởng trà, dùng ấm siêu tốc đun nước chỉ có thể coi là tiện lợi, nhưng nó đã cắt đứt quan hệ với ấm sắt, nồi đồng, lò gió, lửa… nên tự nhiên cũng mất đi sự thân cận với lửa của than củi – tức là thiếu đi quá trình “cháy dần” của chính bản thân. Lửa thật vi diệu của tự nhiên vốn thành thực, than hỏa thì toàn diện, sâu và êm, truyền sức nóng bức xạ vào nước. Nước từ khi ấm, sủi tăm đến sôi bùng lên biểu hiện chính như cuộc đời mỗi sinh mệnh đều cần trải qua. Quá trình “trình diễn” của nước sôi trong một buổi thưởng trà nằm ngay trong tay người chủ: phân tử nước qua tác động của lửa than và cấu trúc ấm sắt, dần dần đạt tới trạng thái sôi trào toàn diện và tinh vi. Do vậy, phẩm chất của sự sôi trong việc đun nước pha trà cần có ba yếu tố: nhiệt độ, dưỡng khí, và động thái của nước sôi.

Nhân 人

Người nào thì uống loại trà nào. Qua thực nghiệm cho thấy, con người thực sự có thiên phú bẩm sinh về pha trà và thưởng trà, đó là điều kiện tiên quyết rất khó thay đổi.

Từ tư chất bẩm sinh, đến giáo dục hậu thiên và duyên phận giao du, tất cả đều góp phần tạo nên loại hình uống trà riêng của một người. Trường không gian của người đó, từ lá trà, dụng cụ cho đến một ấm trà được pha ra, đều hình thành thành một logic, một từ trường phù hợp với chính mình. Trà hợp với người ấy thì người khác uống vào cũng thấy khoan khoái như cá gặp nước. Nhưng trà không hợp thì cho dù dùng nước suối, chọn dụng cụ tốt để pha, hương vị vẫn biến đổi, làm giảm cấp độ và độ rõ rệt của nó.

Trà茶

Vua của các loại trà bao hàm nhiều nghĩa: có thể là cây trà vương (茶王树), giống trà quán quân (桂冠茶种), hoặc Ô Long vương (乌龙茶王). Lấy trà Phổ Nhĩ ở Vân Nam làm ví dụ: Trà vương vừa chỉ cây trà vương, vừa chỉ loại Phổ Nhĩ cổ thụ được ủ trên 50 năm. Ở đây chỉ bàn đến vua của các loại trà mới – tức loại trà Phổ Nhĩ mới được chế tác từ các cây trà hoang dã trên 1500 năm tuổi trong 5 năm gần đây. Những cây trà cát tường ấy – trà vương thụ – được chế thành Phổ Nhĩ mới, chính là trà Phổ Nhĩ của tương lai.

Một cây trà cát tường 1700 năm tuổi ở Đại Tuyết Sơn, sau khi được chế thành trà, hương vị trà thâm trầm, tao nhã, tinh tế, có thể tẩy rửa và an dưỡng toàn thân. Các tế bào, trung mạch và tứ chi dường như được xoa dịu, thư thái. Có một hiệu trưởng tiểu học từ xa tới, vốn bình thường không uống trà, tình cờ thưởng thức trà từ cây trà vương này, lập tức toàn thân mềm nhũn, khí trà sung mãn, thể tùng quả như được bổ sung và kích phát năng lượng. Khi rời đi, ông còn ngơ ngác đến mức quên cả mang theo chiếc cặp của mình.

Một lần thưởng trà đỉnh cao khác là khi được nếm thử loại trà lão tùng Đại Hồng Bào mọc trên vách núi Vũ Di Sơn. Nguyên danh của loại trà này là “Kỳ Đan”, từ xưa vốn được coi là linh diệu dược trà. Tên “Đại Hồng Bào” là cách gọi về sau, tình cờ lại hợp với xu thế thời đại, khiến nó trở thành thương hiệu và hương danh tuyệt thế, nhưng sự diệu kỳ của “Kỳ Đan” thì thật khó diễn đạt trọn vẹn.

Danh trà Đại Hồng Bào. (Ảnh: Hội quán Lạc Phúc)

Vào năm 1994 và 1997, khi được Viện Khoa học Trà Vũ Di Sơn mời thưởng thức trà từ cây mẹ lão tùng Đại Hồng Bào mọc ở vách đá Cửu Long Kê, tôi đã kinh ngạc trước hương thơm phức hợp, tinh diệu, thiên thành. Nhiều năm sau, tôi lại lấy ra vài lá cuối cùng để nếm lại, cảm giác vẫn sâu sắc như thuở ban đầu.

Hương lan, quế, chuối, hoa hồng, phấn hoa và làn khí mát lạnh… lần lượt biến hóa, lan tỏa theo từng thời khắc. Nước trà vào miệng liền tan, vô cùng mềm mại, ấm áp và đầy đặn, khiến thân tâm nhẹ nhõm mà không tự biết, mọi mệt mỏi vì đường xa xe cộ lập tức biến mất không dấu vết.

Khí trà của Đại Hồng Bào cực mạnh, nhưng sự vận hành của nó lại gần như vô hình. Loại trà này hội đủ công năng: thanh nhẹ, tĩnh hóa, tụ thần. Trước đây trong sách và tạp chí về trà từng viết rằng: nó thông suốt lên trên tới tỵ khiếu, Nê Hoàn, Đỉnh Môn, xuống dưới tới tỳ vị, hậu môn, cổ chân – trên thông dưới đạt, thông thiên triệt địa (通天彻地). Khí trà hùng hậu ấy mạnh hơn trà uống vào giờ Ngọ ngày Đoan Ngọ không biết bao nhiêu lần.

Một lần thưởng trà được ghi lại vào tháng Năm năm 2014 còn cho thấy khí trà vươn thẳng lên thiên đình. Khí trà dâng lên dọc sống mũi, như pháo nổ. Thể tùng quả chính là nơi mà Đạo gia gọi là “Nê hoàn cung" tức tinh hoa của trời. Nước trà siêu phàm nhập thánh này, khí trà và công năng của nó trong một không gian vũ trụ khác thì tạm thời vẫn chưa được biết rõ.

Theo Secret China
Bình Nhi biên dịch

Đọc tiếp