Văn trị võ công của Gia Cát Lượng – Được truy phong thụy hiệu “Trung Vũ Hầu” (Phần 1)
Gia Cát Lượng là hóa thân của trí tuệ, là tấm gương của bậc hiền tướng, được người đời tôn xưng là Thánh, là Thần. Suốt đời ông có công lớn thành tựu về văn hóa giáo dục và chính trị, trung nghĩa sáng ngời, sau khi mất được truy phong thụy hiệu “Trung Vũ Hầu”, đây là thụy hiệu hoàn mỹ nhất dành cho bề tôi trung thành thời xưa.
Gia Cát Lượng trung nghĩa sáng rạng nghìn thu
Gia Cát Lượng giữ chức Thừa tướng 14 năm, trong đó 12 năm phụ tá Hậu Chủ. Thi nhân Đỗ Phủ trong bài “Thục Tướng” viết:
“Tam cố tần phiền thiên hạ kế,
Lưỡng triều khai tế lão thần tâm.”
Hai câu thơ này nói rõ: từ khi được Lưu Bị ba lần tới lều cỏ mời ra giúp nước cho đến khi phò tá hai đời quân chủ, Gia Cát Lượng luôn tận tâm lo việc thiên hạ.
Vào năm 226 sau Công Nguyên, Tam quốc ở vào thế chân vạc, thiên hạ chia ba: Ngụy – Ngô – Thục. Trong đó Thục quốc có sức mạnh quân sự yếu nhất, lãnh thổ và dân số đều đứng cuối. Lưu Bị ba lần đến lều tranh mời Gia Cát Lượng ra giúp, phó thác cho ông trọng trách nặng nề khai quốc và duy trì cơ nghiệp nhà Thục.
Nước Thục được dựng lên và cai trị trong hoàn cảnh vô cùng gian nan. Ích Châu – vùng đất mà Lưu Bị đoạt từ tay Lưu Chương – khi ấy “đất nước trống rỗng, dân nghèo đói, khắp nơi hoang tàn, cỏ dại mọc đầy”. Gia Cát Lượng lấy nơi ấy làm điểm khởi đầu, với “một châu đất, mười vạn dân”, chống lại Tào Ngụy, liên minh cùng Đông Ngô. Đối với Lưu Bị, ông thực sự là người “trung thuận cần lao”, lấy thân làm gương, hiếm có khó tìm.
Khi các quận Việt Tây (trị sở Khung Đô, nay là phía tây bắc Tây Xương, Tứ Xuyên), Tương Kha (trị sở Cố Thả Lan, nay là phía tây bắc Khải Lý, Quý Châu), và một số quận Ích Châu khác nổi loạn, Gia Cát Lượng vào năm Kiến Hưng thứ ba đem quân nam chinh: “Tháng năm vượt sông Lô, tiến sâu vào nơi cằn cỗi, ngày đêm không nghỉ, vượt qua vùng lam chướng, bước vào đất man di.” Lần xuất chinh ấy, ông bình định loạn Nam Trung, hàng phục Mạnh Hoạch, đến tháng Chạp cùng năm trở về Thành Đô, tổng cộng gần một năm.
Sử gia nhà Đông Tấn Viên Hồng khi nhận xét về Gia Cát Lượng có nói: “Khổng Minh chờ thời mà hành động, ngưỡng mộ tài năng của Quản Trọng và Nhạc Nghị, phong thái cao nhã, đức hạnh rạng ngời. Việc trị nước có quy củ, dân không oán thán, hình phạt không oan sai, không ai phải rơi lệ uất ức; dẫu là bậc ‘di ái’* của cổ nhân, cũng khó vượt hơn được thế này. Khi lâm chung vẫn một lòng lo việc nước, được di mệnh giao phó trọng trách tướng quốc, Lưu Hậu (tức Lưu Bị) trao quyền mà không chút nghi ngờ; Vũ Hầu (tức Gia Cát Lượng) nhận mệnh mà không hề sợ hãi; người kế vị (Hậu Chủ Lưu Thiện) tiếp nhận mà không hai lòng; trăm họ đều tin phục, không ai dị nghị. Giữa vua và bề tôi, tình nghĩa ấy thật đáng ca tụng biết bao.” Dưới thời Khổng Minh cai trị, vua tôi kính trọng nhau, trên dưới hòa thuận, chính trị trong sạch, dân chúng yên vui.
Người đầu tiên đánh giá Gia Cát Lượng từ góc độ trung nghĩa, chính là vua tôi nhà Thục Hán. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lưu Thiện trong chiếu thư khen ngợi ông rằng: “Tướng quân lập công to lớn cho Hán cuối thời, công nghiệp sánh ngang với Y Doãn và Chu Công.” Các đại thần như Tập Long… trong bản tấu xin lập miếu cho Gia Cát Lượng viết: “Đức hạnh của Gia Cát Lượng vang xa khắp nơi, công lao của ông vượt trội thời thế. Cơ nghiệp của vương thất không sụp đổ, thật là nhờ vào con người này".
Tán tụng qua các triều đại
Sách “Hán Tấn Xuân Thu” chép rằng, Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm từng cảm khái: “Nếu có được Gia Cát Lượng làm người phụ tá, thì đâu phải vất vả như ngày nay.” Trong “Tấn Thái Thủy Khởi Cư Chú” của Lý Quỹ đời Tấn cũng ghi rằng, Tư Mã Viêm từng ca ngợi: “Gia Cát Lượng ở nước Thục, đã tận tâm tận lực vì nước. Con ông là Gia Cát Chiêm khi gặp nạn vẫn chết vì nghĩa – đó đều là điều thiện như một.” Cái “thiện” mà Tư Mã Viêm khen ngợi ở đây chính là “trung”, tức là lòng trung thành đối với quân chủ.
Người đời Tấn là Trương Phụ cho rằng: “Gia Cát Lượng dùng văn trị để ổn định trong nước, dùng võ công để chế ngự bên ngoài, sau đó đem ân trạch của mình ban khắp cho dân chúng Trung Nguyên. Khi hành quân, quân đội của ông đi đến đâu, đường không nhặt của rơi, không phạm đến một cọng tóc dân. Sự nghiệp của ông sắp thành thì mệnh yểu mà mất. Xem những văn thư, kế sách còn lại của ông thì thấy mưu lược sâu rộng, quy phạm cao nhã và bao quát. Tự mình có công thì nhường cho kẻ dưới; kẻ dưới có lỗi thì tự mình kiểm điểm. Thấy điều thiện thì noi theo, nghe lời can gián thì sửa đổi, cho nên danh tiếng và uy vọng của ông vang dội khắp xa gần". ‘Mạnh Tử’ có nói: ‘Nghe phong thái của Bá Di, kẻ tham lam cũng hóa liêm khiết.’ Ta cho rằng, thấy được lòng trung của Khổng Minh, thì ngay cả kẻ gian thần cũng phải lập tiết; e rằng ông đã có thể sánh vai với Y Doãn và Lã Vọng, há chỉ là cùng hàng với Nhạc Nghị mà thôi sao!”
Tập Tạc Xỉ (?-384), học giả đời Đông Tấn, xem Gia Cát Lượng là bậc đại thần đệ nhất kể từ thời Tần – Hán trở đi, ca ngợi rằng Gia Cát Lượng trị quốc bằng tấm lòng nhân đức: “Thi hành pháp luật chỉ khi thật sự cần thiết, hình phạt chỉ áp dụng với kẻ thật sự có tội… Gia Cát Lượng như thế có thể gọi là người biết dùng hình pháp một cách đúng mực; từ sau thời Tần – Hán đến nay chưa từng có ai như vậy.”
Tập Tạc Xỉ còn ca ngợi Khổng Minh rằng: “Có chí hướng cứu giúp Hán triều”, “Có tấm lòng giữ gìn gốc gác, nền tảng”. Điều này giống như Lưu Thiện khi đánh giá Gia Cát Lượng: “Tham gia công lao vĩ đại của các bậc tiên hiền như Y, Chu” và danh hiệu thụy là “Trung Vũ Hầu”, đều nhằm tán dương lòng trung nghĩa và đức hạnh trung thành của Gia Cát Lượng.
Võ Thiếu Nghi đời Đường trong bài thơ “Miếu Thừa Tướng Gia Cát” ca ngợi Gia Cát Lượng rằng: “Giỏi giữ trung tiết”. Hồ Tằng thời Đường trong bài thơ sử ký “Lộ Thủy” khen ngợi Gia Cát Lượng: “Thệ tương hùng lược thù tam cố”, tất cả đều nhấn mạnh đến trung nghĩa và lòng trung thành của Gia Cát Khổng Minh.
Bùi Độ, Thừa tướng đời Đường (756–839), khi xem xét những bậc hiền triết đã khuất, nhận định rằng: “Có người giữ tiết nghĩa phục vụ vua, nhưng không có tài năng mở nước; có người biết lập thân, nhưng không có nghệ thuật trị dân; nếu đủ cả bốn điều này và đồng thời thực hành được, thì người đó chính là Thừa tướng nước Thục, Gia Cát công".
Nhận định này có nghĩa rằng, từ xưa đến nay, Gia Cát Khổng Minh là một bậc toàn tài hiếm có; ông không chỉ trung nghĩa sáng rõ, mà còn sở hữu tài năng khai quốc, phương pháp lập thân và nghệ thuật trị dân.
Gia Cát Lượng bản thân cũng rất coi trọng lòng trung, ông viết trong Binh Yếu: “Lòng trung của con người cũng như vực sâu của cá; cá mất nước sẽ chết, con người mất trung sẽ gặp họa”.
Suốt đời, Gia Cát Lượng hết lòng vì việc “Hưng phục hán thất, hoàn vu cựu đô”, dốc hết tâm huyết, trong 12 năm phụ tá Hậu chủ đã tiến hành đến tám chiến dịch lớn, mỗi lần đều phải đối mặt với kẻ thù mạnh gấp nhiều lần, thậm chí gấp mười lần so với quân mình. Nhà thơ Lục Du trong bài Thư Phẫn ca ngợi ông: “Xuất sư nhất biểu chân danh thế, thiên tái thùy kham bá trọng gian?” Ở đây chính là muốn nói rằng Gia Cát Lượng có tài năng bao quát như vũ trụ, vài ngàn năm qua chưa ai sánh bằng. Ông phụ tá một vị Hậu chủ tầm thường, coi trung nghĩa làm trọng, trị quốc, quản quân, lần lượt xuất chinh sáu lần đến Kỳ Sơn, tận tụy hết mình, cống hiến đến mức kiệt sức mà chết giữa quân đội.
Gia Cát Lượng không chỉ trung nghĩa với quân chủ, mà còn trung nghĩa với quân sĩ. Trong thời xưa, việc lập quốc dựa vào nông nghiệp làm nền tảng, nên trong thời chiến cũng không thể bỏ bê việc canh tác. Vì vậy, Gia Cát Lượng đã thực hiện chế độ luân phiên binh lính, vừa đảm bảo công việc nông nghiệp, vừa duy trì sức chiến đấu của quân đội.
Vào năm Kiến Hưng thứ 9 (231 SCN), tháng 2, Gia Cát Lượng dẫn một trăm nghìn quân tiến về phía bắc tấn công Kỳ Sơn, trong khi Tư Mã Ý chỉ huy ba trăm nghìn quân ra đón đánh. Lúc này, đúng vào thời điểm quân Thục Hán cần luân phiên binh sĩ, nhưng Gia Cát Lượng chỉ còn tám vạn người. Các tướng sĩ cho rằng nên tạm hoãn việc luân phiên để tạo uy thế. Gia Cát Lượng nói: "Ta thống lĩnh quân hành binh, lấy tín nghĩa lớn làm nền tảng. Nếu đã hứa mà thất tín, xưa nay là điều đáng tiếc. Những người ra đi hãy chuẩn bị trang phục và chờ đến ngày trở về, vợ con ngóng trông mà tính từng ngày; dù đối diện hiểm nguy, đạo nghĩa cũng không được bỏ". Lời nói của ông khiến quân sĩ rất cảm động: những người phải rời quân xin được ở lại, những người đang tại ngũ đều hăng hái chiến đấu. Kết quả lần này, quân Thục bắn chết đại tướng Tào Ngụy là Trương Hợp, đồng thời đẩy lui Tư Mã Ý.
Trong quan điểm về liên minh với Đông Ngô chống Tào Ngụy, cũng thể hiện rõ lòng trung nghĩa của Gia Cát Lượng. Năm Kiến An thứ 24 (219 SCN), Đông Ngô chiếm Kinh Châu và giết Quan Vũ. Đến năm Chương Vũ thứ 2 của Thục Hán (222 SCN), Lưu Bị phát động trận Di Lăng, liên minh Ngô-Thục bị tan rã. Tôn Quyền sai đô úy Triệu Tư sang Tào Ngụy cầu hoà, tỏ ý đối với Ngụy Văn Đế là “khuất mình trước bệ hạ”.
Sau khi Gia Cát Lượng được Lưu Bị gửi gắm việc nuôi dưỡng thiếu chủ, ông tiếp tục thực hiện chiến lược liên Ngô chống Ngụy. Vào Kiến Hưng nguyên niên (224 SCN), ông cử sứ giả sang Đông Ngô, khuyên Ngô cắt đứt quan hệ với Ngụy, đạt được mục đích như dự định. Sau đó, nhiều lần ông phái các nhân vật quan trọng như Phí Tế, Trần Chấn, Trương Di, Đặng Chi sang Ngô “Sử sính tuế thông” để đảm bảo rằng việc chinh Nam, phạt Bắc diễn ra mà không phải lo lắng đến phía sau.
Gia Cát Lượng cũng đã dùng trung nghĩa để bình định loạn lạc ở Nam Trung. Mâu thuẫn dân tộc giữa người Hán và các bộ lạc từ lâu đã tồn tại. Để hóa giải những vấn đề này, Gia Cát Lượng dùng đức để phục người, bảy lần bắt rồi thả Mạnh Hoạch, khiến các dân tộc thiểu số phương Nam tâm phục khẩu phục, thề từ đó không tái bạo loạn. Sau khi bình định Nam Trung, Gia Cát Lượng không phái quân, không phải quan lại, để người dân bản địa tự trị theo luật tục của mình, khiến người Hán và các bộ tộc thiểu số sống yên ổn tạm thời. Như vậy, chữ trung nghĩa của Gia Cát Lượng đã thể hiện ở vùng Nam Trung, nơi người dân lập đền thờ Gia Cát Khổng Minh, hương khói thờ tự trường tồn qua các thế hệ.
Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, ông được truy tặng tước hiệu “Trung Vũ Hầu”. Trong “Cựu Điển Bị Chứng” (Quyển 3), Chu Bành Thọ giải thích: "Lấy Trung Vũ làm thụy hiệu, là theo lệ đặt thụy, xưa nay đời đời trọng văn chính, nhưng phần lớn đều do văn thần được nhận. Đối với những văn võ tướng quân được truy tặng thụy, thì Trung Vũ là đẹp nhất. Như Thừa tướng Thục Hán, Vũ Hương Hầu Gia Cát Lượng".
Hệ thống truy tặng thụy hiệu có nguồn gốc từ giữa thời Chu, khi truy tặng thụy hiệu cho Chu Công Đán và Thái Công Vọng, nhằm phản ánh trung thực sự nghiệp và công lao của người đã khuất. Thụy hiệu của Gia Cát Lượng là “Trung Vũ”, nghĩa là “Trung” (Trung nghĩa, trung thành) và “Vũ” (Dũng, võ công). Đây là một đánh giá cực kỳ cao về cả cuộc đời của Gia Cát Lượng.
Theo Epoch Times
Bảo Hân biên dịch