Vì sao Tây Vương Mẫu đặc biệt hạ phàm để gặp Hán Vũ Đế?
Trong dòng chảy năm nghìn năm lịch sử Trung Hoa, văn hoá truyền thống Trung Quốc luôn xuyên suốt tư tưởng tu luyện, đắc đạo thành tiên, phản bổn quy chân, tu thành chính quả — Đó cũng là tâm nguyện của vô số người Trung Quốc.
Con đường chính để đạt được điều ấy, một là tu Đạo, hai là tu Phật. “Đạo” là tín ngưỡng bản địa của Trung Quốc, còn “Phật” được truyền vào Trung Quốc từ Ấn Độ vào thời Đông Hán, nhanh chóng được phổ biến và được người Trung Quốc tiếp nhận. Trời cao biển rộng bao la, chuyện thần tiên kỳ dị nhiều vô kể, truyền tụng suốt ngàn đời. Vào thời Hán Vũ Đế, từng xảy ra câu chuyện Tây Vương Mẫu hạ xuống nhân gian.
Hán Vũ Đế Lưu Triệt (156 TCN – 87 TCN), vị hoàng đế thứ bảy của Tây Hán, là một trong những hoàng đế có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ khi mới mười sáu tuổi, băng hà lúc bảy mươi tuổi, tại vị 53 năm 345 ngày. Thụy hiệu chính thức là “Hiếu Vũ Hoàng Đế”. Sau khi lên ngôi, Lưu Triệt đặc biệt ưa thích đạo thuật tu luyện thần tiên, thường đến danh sơn đại xuyên, ngũ nhạc trong cả nước để cầu khấn thần linh, mong mình đắc đạo thành tiên.
Tây Vương Mẫu là nữ thần trong thần thoại Trung Quốc và tín ngưỡng dân gian Trung Hoa, cũng là nữ tiên trong Đạo giáo, được người đời tôn xưng là “Vương Mẫu Nương Nương”, “Dao Trì Kim Mẫu”, “Tây Dao Tiên Lão”... Tây Vương Mẫu cư ngụ trong khu vườn trên đỉnh Lăng Phong của núi Côn Lôn, lầu các tráng lệ cao đến chín tầng, bên trái là Dao Trì, bên phải là dòng nước biếc bao quanh.
Rốt cuộc nguyên nhân nào khiến Tây Vương Mẫu muốn đến gặp Hán Vũ Đế? Lẽ nào vì Lưu Triệt mong muốn tu luyện để đắc chính quả?
Chuyện kể rằng vào ngày mậu thìn tháng tư, Vũ Đế đang ngồi nhàn trong điện Thừa Hoa, có Đông Phương Sóc và Đổng Trọng Quân bầu bạn trò chuyện. Bỗng thấy một thiếu nữ vận áo xanh cực kỳ xinh đẹp đến nói với ông: “Ta là ngọc nữ của thiên cung, tên là Vương Tử Đăng. Tây Vương Mẫu phái ta đến đây. Nghe nói bệ hạ một lòng tìm đạo, nhiều lần đến tam sơn ngũ nhạc để cầu khấn. Từ hôm nay, xin bệ hạ tĩnh tâm trai giới, đến ngày mùng bảy tháng bảy, Vương Mẫu sẽ giáng lâm.” Vũ Đế vội rời ghế, hành lễ bái lạy, đồng ý làm theo, rồi ngọc nữ liền biến mất.
Ngày mùng bảy tháng bảy, trong cung ngoài điện đều được quét dọn sạch sẽ. Đại điện còn đặc biệt chuẩn bị chỗ ngồi cho Tây Vương Mẫu. Trên nền đất trải thảm lụa tím, đốt hương bá hợp, treo rèm vân cẩm, thắp đèn nến sáng rực. Trên bàn bày chà là ngọt tiến cống từ Ngọc Môn, rượu nho từ Tây Vực đã rót sẵn, lại bày những loại dưa hảo hạng nhất trong cung để dùng tiếp đãi thần tiên thiên giới. Vũ Đế mặc lễ phục tráng lệ, cung kính đứng dưới bậc ngọc trong cung, không khí trang nghiêm, lặng lẽ chờ Tây Vương Mẫu giáng lâm.
Đến canh hai đêm khuya, bỗng thấy trời tây nam nổi lên từng dải mây dồn dập cuộn lại lao thẳng về phía hoàng cung. Tây Vương Mẫu đã đến trước điện, quần tiên cũng theo sau như bầy chim tụ hội. Họ người cưỡi rồng, cưỡi hổ, người điều khiển bạch kỳ lân, bạch hạc, người ngồi thiên mã hay xe hoa tráng lệ, ước chừng vài nghìn, khiến cả cung điện rực sáng.
Chỉ thấy Vương Mẫu ngồi trên xe mây tím cuộn quanh, kéo xe là những con rồng trên lưng có vằn chín màu. Ngoài ra còn năm mươi thiên tiên thị vệ đi theo, tất cả cao hơn một trượng, tay cầm cờ tiết nhiều màu, trên mình đeo bảo ấn kim cương của thiên cung, đội mũ cao của thần tiên, đứng chỉnh tề trước cung điện. Vương Mẫu được hai thiếu nữ chừng mười sáu, mười bảy tuổi, mặc áo lụa xanh dìu vào đại điện. Trên vai Vương Mẫu khoác tấm choàng lớn dệt vàng óng ánh, khí chất đoan trang rạng rỡ. Trên áo buộc linh phi đại thụ - loại đai chỉ thần tiên mới được dùng, bên hông đeo bảo kiếm “Phân Cảnh”, búi tóc vấn kiểu núi Thái Hoa, đội mũ “Thái Chân Thần Anh” của thần tiên, chân mang giày khắc văn phượng bằng hắc ngọc.

Vì sao Tây Vương Mẫu lại đặc biệt hạ phàm gặp Hán Vũ Đế?
Vương Mẫu trông chừng ba mươi tuổi, dáng vẻ vừa phải, thiên tư hiền hòa, dung nhan tuyệt thế. Ngồi trên giường đã chuẩn bị sẵn, sau khi Vũ Đế quỳ lạy vấn an, Vương Mẫu gọi ông ngồi. Đầu bếp thiên cung mang đến những món ăn và quả phẩm đặc chế màu sắc và hương vị tuyệt mỹ, cùng thứ rượu tỏa hương kỳ lạ — những mỹ vị mà nhân gian không hề có.
Vương Mẫu lại bảo thị nữ mang đến bảy quả tiên đào to bằng quả trứng vịt, màu xanh nhạt. Vương Mẫu cho Vũ Đế bốn quả, còn ba quả thì bà ăn. Vũ Đế ăn xong, cảm thấy vị ngọt tuyệt vời, hương thơm lưu mãi không tan. Thấy Vũ Đế giữ lại hạt đào, Vương Mẫu hỏi để làm gì. Vũ Đế đáp muốn trồng sau này. Vương Mẫu nói: “Tiên đào ba nghìn năm mới kết một lần, đất nhân gian quá cằn cỗi, trồng cũng không mọc được.”
Sau vài tuần rượu, Vương Mẫu cho thị nữ tấu nhạc thiên cung, hát bài ca của cửu thiên thần linh. Âm nhạc vang chấn cửu thiên, thanh điệu trong sáng du dương. Hợp tấu vừa dứt, Vương Mẫu nói: “Tu đạo thuật chính là dưỡng tinh thần, thay đổi thân thể. Tu đến mức dưỡng tinh đủ, thân thể thay đổi thì có thể thành tiên. Nếu không đạt được thì khó tránh cái chết. Ta bảo thị nữ quản thư hòm là Lý Khánh Tôn chép lại những bí quyết ấy tặng cho ngươi, mong ngươi chiếu theo mà tu luyện.”
Nói xong, Vương Mẫu chuẩn bị hồi thiên cung. Vũ Đế rời chỗ, dập đầu thỉnh cầu bà ở lại giảng chân kinh. Vương Mẫu liền phái thị nữ Quách Mật Hương đi mời Thượng Nguyên phu nhân.
Chẳng bao lâu, giữa mây truyền đến tiếng tiêu trống, rồi Thượng Nguyên phu nhân xuất hiện cùng hơn một nghìn thị tòng văn võ, độ tuổi mười tám mười chín, ai nấy phong tư thanh thoát, rạng rỡ. Thượng Nguyên phu nhân khoảng hơn hai mươi tuổi, dung mạo càng thêm tuyệt mỹ, đôi mắt linh động sáng ngời, áo bào xanh thêu mây ngũ sắc. Bà cũng mang đầu bếp theo, bày đủ loại tiên trân mỹ vị. Vương Mẫu nói với Vũ Đế: “Đây là Thượng Nguyên phu nhân — chân nguyên chi mẫu, là vị thần cực kỳ tôn quý.” Vũ Đế lập tức đứng dậy, bái lạy.
Thượng Nguyên phu nhân mỉm cười nói: “Ở nơi nhân thế ác trược, tất yếu con người tham rượu háo sắc, mưu cầu danh lợi, đó là chuyện thường tình. Ngươi thân là thiên tử, trong những mặt ấy còn hơn người thường. Nhưng ngươi có thể trong cung điện xa hoa mà hướng đạo tu luyện, trừ bỏ gốc rễ tư dục, tu thân dưỡng tính, đủ thấy ngươi vẫn có chí hướng.”
Phu nhân hỏi Vũ Đế: “Ngươi thực sự hướng đạo sao? Ta nghe ngươi nhiều lần chiêu nạp thuật sĩ, tế lễ núi sông, lập miếu thờ thần linh, cũng rất chuyên cần. Nhưng không thu được kết quả ắt có nguyên do. Nếu từ nay ngươi đối nhân xử thế hiền hòa, xét rõ phải trái, giải oan kết, ban ân huệ cho dân, cứu tế dân nghèo, thương xót cô quả, quan tâm bách tính khổ nạn, thì chính là tích âm đức. Nay Vương Mẫu lấy thân phận tôn quý giáng lâm vì thấy ngươi chí thành, ngươi càng phải theo lời bà chỉ dạy. Kiên trì trăm năm, Vương Mẫu nhất định sẽ khiến ngươi đắc chân đạo, vào được thiên giới, khi đó có thể tự do du hành mười phương. Nếu thật lòng tu đạo, niềm tin kiên định, dù phải vào nước sôi lửa bỏng cũng chẳng từ, nhưng phải giữ vững chí hướng, duy trì thiên tính thuần chân nhất. Ta dùng chân lý đạo để khích lệ ngươi, mục đích là xóa bỏ tạp niệm và nghi hoặc trong lòng, làm vững tin tu đạo.”
Vương Mẫu nói: “Lưu Triệt mang tâm nguyện tu luyện đã lâu nhưng chưa gặp minh sư dẫn đường. Nếu nguyện tu đạo của hắn tiêu tan, hắn ắt sẽ cho rằng không có thần tiên tồn tại. Vậy nên ta giáng lâm gặp hắn, khiến hắn kiên định chí hướng tu đạo, tiêu trừ nghi hoặc về việc đắc đạo thành tiên.” Vương Mẫu bảo Vũ Đế rằng nếu theo lời Thượng Nguyên phu nhân tu luyện, ắt có thể trường sinh, nhưng liệu ông có kiên trì được không? Vũ Đế liền quỳ xuống thưa: “Lời dạy của Thượng Nguyên phu nhân, thần xin khắc ghi vào kim bản, thân hành thực hiện, bền chí không đổi.”
Ngoài việc khiến Lưu Triệt hiểu rằng chỉ có thành tâm tu hành mới có thể đắc đạo, và phải vứt bỏ nghi hoặc tạp niệm, Vương Mẫu còn nhấn mạnh rằng bà muốn thông qua Lưu Triệt để khai thị cho những người muốn học đạo nơi nhân gian, khiến nhiều phàm nhân biết rằng giữa trời đất thực sự có đạo thuật thần tiên, từ đó bỏ đi mê chấp không tin thần đạo — đây mới là ý nghĩa ban đầu của Vương Mẫu. “Cầu trường sinh không khó, hiểu được chân lý tu đạo mới khó; hiểu được chân lý tu đạo cũng chưa khó, thật sự làm theo mà tu luyện mới khó; còn tu luyện cũng không hẳn khó, khó nhất là kiên trì đến cùng.” Sau đó, Tây Vương Mẫu ban cho Vũ Đế bí điển trân quý nhất — “Ngũ Nhạc Chân Hình Đồ”, còn Thượng Nguyên phu nhân cũng để lại mười hai quyển chân kinh.
Khi trời gần sáng, Vương Mẫu và Thượng Nguyên phu nhân cùng lên xe rời đi. Thị vệ, xe mã, long hổ, đoàn nghi trượng mở đường và âm nhạc đều giống như khi họ đến. Chỉ thấy mây ngũ sắc dày đặc, hương thơm lan tỏa, bay thẳng lên trời tây nam, rất lâu sau mới không còn thấy bóng dáng.
Sau khi đích thân diện kiến Vương Mẫu và Thượng Nguyên phu nhân, Vũ Đế càng tin tưởng thần tiên có thật. Mỗi ngày ông đều tắm rửa trai giới, đốt hương quét dọn, và tu luyện theo yêu cầu trong chân kinh.
Thi nhân đời Đường là Tào Đường từng làm bài thất ngôn luật thi “Hán Vũ Đế tướng hậu Tây Vương Mẫu giáng hạ” để mô tả cảnh tượng long trọng lần ấy:
Côn luân ngưng tưởng tối cao phong, vương mẫu lai thừa ngũ sắc long.
Ca thính tử loan do phiêu miểu, ngữ lai thanh điểu hứa tòng dung.
Phong hồi thủy lạc tam thanh nguyệt, lậu khổ sương truyền ngũ dạ chung.
Thụ ảnh du du hoa thiểu thiểu, nhược văn tiêu quản thị hành tung.
Tạm dịch:
Trên đỉnh Côn Lôn cao mịt mù, Vương Mẫu cưỡi rồng ngũ sắc bay xuống.
Tiếng ca như chim loan tím vương trong sương khói, lời nói nhẹ tựa chim xanh bay đến ung dung.
Gió đổi chiều, nước rơi dưới vầng trăng Tam Thanh; tiếng chuông đêm lạnh lẽo ngân qua năm canh.
Bóng cây lờ mờ, hoa im phăng phắc; nếu nghe tiếng tiêu sáo, ắt là dấu tiên nhân ghé qua.
Câu chuyện của Hán Vũ Đế đem đến cho chúng ta gợi mở rằng: làm người một đời nơi thế gian, bất luận là cầu trường sinh hay cầu sức khỏe bình an, chỉ cần trong lòng có Thần, dù mưa bão phong cuồng, bóng đêm dày đặc, bạn đều có thể tìm được con đường trở về nhà.
Theo Secret China
Bảo Hân biên dịch