Lợi ích trọn đời từ văn hóa truyền thống Trung Quốc (4): Thiên nhân hợp nhất

Lợi ích trọn đời từ văn hóa truyền thống Trung Quốc (4): Thiên nhân hợp nhất
Lợi ích trọn đời từ văn hóa truyền thống Trung Quốc (4): Thiên nhân hợp nhất (Ảnh: Pixabay)

Vào những năm cuối đời, học giả Quốc học Tiền Mục tiên sinh đã ngộ ra một điều về quan niệm Thiên nhân hợp nhất trong văn hóa truyền thống Trung Quốc. Ông nói: Đóng góp vĩ đại nhất của văn hóa Trung Quốc trong quá khứ nằm ở nghiên cứu về mối quan hệ giữa Thiên và Nhân. Quan niệm Thiên nhân hợp nhất là chủ trương cổ xưa và có nhiều đóng góp nhất của văn hóa Trung Quốc cổ đại. Tôi cho rằng đánh giá này là xác đáng, đáng được coi trọng.

Từ xưa đến nay, ba trường phái lớn của văn hóa truyền thống Trung Quốc là Nho, Phật, Đạo đều đề cập đến Thiên nhân hợp nhất.

Trước Công nguyên 300 năm, "Quách Điếm Sở Giản" có viết: "Dịch, sở dĩ hội Thiên đạo, Nhân đạo dã", nghĩa là Chu Dịch là một cuốn sách giảng thuật tư tưởng Thiên nhân hợp nhất. Chu Dịch. Văn Ngôn viết: "Phù đại nhân giả, dữ thiên địa hợp kỳ đức, dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh, dữ tứ thời hợp kỳ tự, dữ quỷ thần hợp kỳ cát hung, tiên thiên nhi thiên bất vi, hậu thiên nhi phụng thiên thời." chính là miêu tả cụ thể cảnh giới Thiên nhân hợp nhất.

Đạo Đức Kinh của Đạo gia viết: "Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên", cũng là nói về Thiên nhân hợp nhất.

Thiền sư Hàn Sơn, được cho là hóa thân của Văn Thù Bồ Tát, có bài thơ viết: "Chúng tinh la liệt dạ minh thâm, nham điểm cô đăng nguyệt vị trầm. Viên mãn quang hoa bất ma oánh, quải tại thanh thiên thị ngã tâm." cũng là nói về Thiên nhân hợp nhất.

Từ trước đến nay có rất nhiều cách giải thích về Thiên nhân hợp nhất. Vậy, rốt cuộc quan niệm Thiên nhân hợp nhất có nội hàm gì? Tại sao nói quan niệm Thiên nhân hợp nhất là lý niệm truyền thống mang lại lợi ích trọn đời? Sau đây xin chọn ra những điểm cốt yếu để trình bày.

Thiên nhân hợp nhất vượt trên bụi trần

Trung Quốc tự cổ đã được gọi là Thần Châu, có nghĩa là vùng đất được thần linh lựa chọn để con người tu luyện thành thần. Văn hóa truyền thống Trung Quốc cũng được gọi là văn hóa Thần truyền. Do đó, văn hóa tu luyện thời cổ đại Trung Quốc rất phát triển. Nhiều người thông qua tu Phật, tu Đạo, siêu thoát khỏi luân hồi sinh tử, người tu Đạo thành Chân nhân, người tu Phật thành Phật.

Ví dụ, thời thượng cổ có Kỳ Bá, Quảng Thành Tử, Thần Nông, Hoàng Đế, Y Doãn, Lão Tử, v.v., đều là những người tu Đạo, cuối cùng đều đắc đạo thành Chân nhân, tức là trở thành người siêu trần thoát tục. Trạng thái đó ở Lão Tử được gọi là Huyền đồng, ở Hoàng Đế được gọi là Đề huề thiên địa, ở Trang Tử được gọi là Tề vật, đồng ư đại thông, dữ thiên địa tịnh sinh, dữ vạn vật vi nhất. Đề huề thiên địa, Huyền đồng, Tề vật, ba cách nói mang cùng một ý nghĩa, đều chỉ cảnh giới tu luyện cao nhất: phản bổn quy chân, thiên nhân hợp nhất.

Người Trung Quốc được gọi là con cháu Viêm Hoàng. Hoàng Đế là thủy tổ văn hóa của dân tộc Trung Hoa, sau khi chiến thắng Xi Vưu trở thành thiên tử, ông bắt đầu thiết lập trăm quan, định ra điển chương, tuyển chọn hiền tài, phong thiện tế trời, đức hóa thiên hạ. Ông còn ra lệnh cho thần dân xây nhà cửa, trồng ngũ cốc, may quần áo, chế tạo thuyền xe. Thời Hoàng Đế, chữ viết, y học, toán học, lịch pháp, nhạc cụ, đồ gốm, nghề trồng dâu nuôi tằm, v.v., các loại phát minh lần lượt xuất hiện. Do đó, hậu thế cho rằng, nền văn minh Trung Hoa được đặt định từ thời Hoàng Đế.

Lịch sử có nhiều truyền thuyết về Hoàng Đế cầu đạo. Truyền thuyết kể rằng Quảng Thành Tử là một vị thần tiên, sống trong một hang đá ở núi Không Đồng, phía tây nam huyện Lâm Nhữ, tỉnh Hà Nam. Hoàng Đế nghe nói liền đích thân đến bái phỏng. Cuối cùng, Quảng Thành Tử cảm động trước tấm lòng thành của ông, truyền thụ cho ông bí pháp tu luyện, dặn ông "chú trọng tu dưỡng nội tâm, bài trừ sự quấy nhiễu từ bên ngoài", và nói rằng "đạo của ta sẽ dẫn ngươi đến cánh cửa vô cùng, du ngoạn trong miền đất vô cực, cùng nhật nguyệt tỏa sáng, cùng trời đất trường tồn".

Do Hoàng Đế tu tâm trọng đức, cả nước an định, thiên hạ thái bình. Sử sách ghi chép, Hoàng Đế tại vị 100 năm, đất nước không có trộm cướp ẩu đả, người dân nhường nhịn hòa thuận, mưa thuận gió hòa, thậm chí hổ báo cũng không làm hại người, chim muông côn trùng đều chịu ảnh hưởng giáo hóa của ông, là một thời đại thịnh trị mẫu mực "đạo hành thiên hạ, đức trạch bát phương".

Tương truyền vào năm 2598 TCN, Hoàng Đế đã cho đúc một cái đỉnh lớn dưới chân núi Kiều Sơn. Khi đỉnh được đúc xong, trời bỗng nhiên mở ra, một con rồng vàng từ trên trời hạ xuống đón ông. Hoàng Đế cùng hơn 70 cận thần đi theo cùng cưỡi rồng vàng, ban ngày bay lên trời, viên mãn công thành. Lúc này, muôn dân bách tính tận mắt chứng kiến cảnh tượng thần thánh tráng lệ này, đều tin rằng thần thực sự tồn tại, càng thêm tin thần kính thần, sùng đạo thượng đức.

Việc Hoàng Đế cuối cùng viên mãn phi thăng đã khơi gợi cho con cháu Viêm Hoàng: con người có thể thông qua tu luyện để hồi quy về trời. Trời ở đây chính là Thần. Người Trung Quốc thường nói: "Người đang làm, trời đang nhìn", "Hoàng thiên vô thân, duy đức thị phụ", "Thiên mệnh bất khả vi", "Thiên mệnh chiêu chiêu", "Lấy đức phối thiên", "Phạm tội với trời, không chỗ cầu khấn", chữ "trời" ở đây cũng đều chỉ "thần". Con đường duy nhất để con người kết nối với thần chính là "tu luyện".

Thiên nhân hợp nhất trị vì thiên hạ

Theo quan điểm trị quốc, người xưa cho rằng thiên tượng và nhân sự tương ứng với nhau, đồng thời có sự cảm ứng lẫn nhau. Người cầm quyền chỉ có thuận theo sự biến đổi của thiên tượng, hợp nhất với thiên tượng, mới có thể có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa, trăm nghề hưng thịnh, quốc thái dân an. Ngược lại, sẽ gặp phải nội ưu ngoại hoạn, tứ bề thọ địch, thiên tai nhân họa liên miên.

Đại nho thời Hán Vũ Đế là Đổng Trọng Thư cho rằng, "Trời là vua của trăm thần, là bậc tối tôn mà bậc đế vương tôn kính", Trời là đấng tối cao có thể chi phối tất cả. Quân chủ là Thiên tử, thay mặt trời trị vì đất nước, quyền lực của vua là thần thánh, không thể xâm phạm. Nhưng quân chủ cũng không phải là không có ràng buộc, bởi vì trời và người có sự cảm ứng lẫn nhau. Khi Thiên tử thi hành vương đạo, thực hiện chính sách tốt, tự nhiên sẽ mưa thuận gió hòa, bốn mùa rõ rệt, mọi sự biến đổi đều thuận lợi. "Quốc gia sắp có sai lầm thất đức, trời sẽ giáng xuống tai họa để cảnh cáo, nếu không biết tự kiểm điểm, lại giáng xuống những điều kỳ dị để cảnh báo, vẫn không biết thay đổi, thì tổn hại thất bại sẽ ập đến. Qua đó có thể thấy tấm lòng nhân ái của trời đối với vua, mong muốn ngăn chặn loạn lạc". Đây chính là Thuyết thiên nhân cảm ứng mà Đổng Trọng Thư rút ra từ thuyết Thiên nhân hợp nhất.

Tư Mã Thiên viết Sử ký, chính là muốn "Nghiên cứu sự giao thoa giữa trời và người, thấu hiểu sự biến đổi của cổ kim, tạo nên học thuyết của riêng mình". Trong Sử ký - Nhạc thư, ông nói: "Trời và người tương thông với nhau, giống như hình với bóng, quan hệ của khí, người làm việc tốt, trời báo đáp bằng phúc; người làm việc xấu, trời báo đáp bằng họa. Giống như gieo dưa được dưa, gieo đậu được đậu, là đạo lý rất tự nhiên. Vì vậy, cần phải suy ra thiên đạo để làm sáng tỏ nhân sự. Vua nên hành động giống như trời, tấm lòng chí thành của vua có thể cảm động trời, khiến âm dương biến đổi; nếu vua làm trái âm dương, trái với lòng trời thì sẽ có tai dị xảy ra, đó là lời cảnh cáo của trời đối với vua".

Sử ký - Thiên quan thư mô tả chi tiết mối quan hệ tương ứng giữa thiên tượng và nhân sự. Từ đó có thể thấy, sự thịnh suy của quốc gia, họa phúc của vua, hiền tài hay không của tướng soái, thắng bại của chiến tranh, v.v., đều là do trời đã sắp đặt trước, vì vậy, có thể từ những biến đổi tương ứng của thiên tượng, mà suy biết được ý trời, để xem xét họa phúc cát hung. Ví dụ như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, v.v., báo hiệu tai dị, tường lành, hoặc người mất chính sách ngừng, hoặc chính sự thông suốt, người dân hòa thuận. Tư Mã Thiên liệt kê rất nhiều sự thật lịch sử để chứng minh, không có việc gì mà thiên tượng không biểu hiện ra trước, sau đó mới ứng nghiệm ở nhân gian.

Vì vậy, các vị vua anh minh thời xưa đều rất coi trọng việc kính Trời và tế Trời, thường xuyên kiểm tra xem lời nói và hành động của mình có phù hợp với ý Trời hay không. Mỗi khi xuất hiện thiên tai, nhân họa và tình trạng hỗn loạn, mất trật tự, họ thường tự kiểm điểm, trách cứ bản thân, thậm chí còn hạ "chiếu tội mình". Người hạ "chiếu tội mình" nhiều nhất là Đường Thái Tông, tổng cộng có 28 bản.

Năm 628 sau Công nguyên, hạn hán và châu chấu cùng ập đến, Đường Thái Tông hạ chiếu rằng: "Nếu như làm cho năm được mùa, thiên hạ yên ổn, hãy chuyển tai họa sang cho trẫm, để bảo toàn muôn nước, đó là điều trẫm mong muốn, cam tâm tình nguyện, không chút tiếc nuối." Thái Tông vì để cho dân chúng có cơm ăn, thà nguyện trời cao giáng mọi tai họa xuống một mình ông. Có thể tự trách mình vì dân như vậy, chẳng trách ông có thể được trời phù hộ, thần linh che chở, khai sáng thời đại thịnh trị "Chính Quán chi trị"!

Thiên nhân hợp nhất để có được sức khỏe và bình an
Theo quan điểm dưỡng sinh, người xưa cho rằng, trời đất là một đại vũ trụ, con người là một tiểu vũ trụ. Đại vũ trụ và tiểu vũ trụ có mối quan hệ tương ứng với nhau. Nếu con người thuận theo đạo trời, sống hòa hợp với thiên nhiên thì sẽ khỏe mạnh, trường thọ; ngược lại, sẽ dễ dàng mắc bệnh, yểu mệnh, thậm chí đột tử.

Y học cổ truyền cho rằng, trời có âm dương, người cũng có âm dương; trời có ngũ hành, người có ngũ tạng; trời có mười hai tháng, người có mười hai kinh mạch; trời có một năm ba trăm sáu mươi ngày, thân thể người cũng có ba trăm sáu mươi huyệt đạo. Con người và trời đất tương thông với nhau, con người phải sống hài hòa với đạo trời, "pháp với âm dương, hòa với thuật số, ăn uống điều độ, sinh hoạt có quy luật, không làm việc quá sức, cho nên có thể hình thần hợp nhất, sống trọn vẹn tuổi trời ban, trăm tuổi mới rời xa".

Con người phải căn cứ vào sự thay đổi âm dương của bốn mùa (xuân hạ thuộc dương, thu đông thuộc âm), chu kỳ ngày đêm (ban ngày thuộc dương, ban đêm thuộc âm), sự biến đổi âm dương trên dưới, trong ngoài, trước sau, cũng như sự biến đổi hàn, nhiệt, khô, ẩm của vạn vật, để điều chỉnh thân tâm, ăn mặc, ăn uống, ở, đi lại đều phù hợp với sự biến đổi âm dương, quy luật của vạn vật, thì mới có thể tinh, khí, thần đầy đủ, hình thần kiêm bị, sống trọn vẹn tuổi trời ban, sống đến trăm tuổi mới qua đời.

Ngược lại, nếu con người không sống theo đạo trời, mà "lấy rượu làm nước lã, lấy điều sai trái làm lẽ thường, say xỉn rồi vào phòng the, vì dục vọng mà hao tổn tinh lực, làm tiêu tan chân khí, không biết giữ gìn, không điều hòa tinh thần đúng lúc, chỉ lo thỏa mãn dục vọng, trái với lẽ sống vui vẻ, sinh hoạt không điều độ, cho nên mới năm mươi tuổi đã suy yếu".

Nếu con người lấy rượu làm đồ uống thông thường, nói dối, nói khoác, nói lời vô nghĩa, nói năng bừa bãi, thậm chí nói hươu nói vượn, sau khi uống rượu, liền vào phòng the hưởng lạc, phóng túng dục vọng quá độ, tinh, khí, thần sẽ hao tổn cạn kiệt; không biết kết hợp lao động và nghỉ ngơi, chỉ biết hưởng thụ lạc thú nhất thời, sinh hoạt không có chút tiết chế nào, có thể sống đến một nửa tuổi trời ban đã xuất hiện dáng vẻ già nua.

Hoàng Đế Nội Kinh viết: "Cho nên người trí tuệ dưỡng sinh, nhất định phải thuận theo bốn mùa mà thích ứng với lạnh nóng, điều hòa hỉ nộ mà an cư lạc nghiệp, tiết chế âm dương mà điều hòa cương nhu, như thế thì tà khí không xâm nhập, sống lâu khỏe mạnh." Đây là câu nói nổi tiếng về đạo lý dưỡng sinh.

Theo Secretchina
Minh Nguyệt

Đọc tiếp